Chào mừng đến với Blogger !!!

30 tháng 5, 2012

NHỮNG ĐỀ XUẤT CẢI CÁCH QUÂN SỰ TRONG TƯ TƯỞNG CANH TÂN CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ



1. Đặt vấn đề
2. Nội dung
2.1. Hoàn cảnh lịch dân tộc
2.2. Chương trình canh đất nước của Nguyễn Trường Tộ
2.3. Nguyên nhân tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ bị thất bại, trong đó có cải cách về quân sự.
2.4. Đánh giá cải cách Nguyễn Trường Tộ
2.5. Bài học cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước hiện nay
3. Kết luận
 
1. Đặt vấn đề
Nhìn một cách tổng quát có thể thấy rằng, sau một thời gian kéo dài từ thời thượng cổ đến thế kỉ thứ XV bước đi của lịch sử thường bắt đầu từ phương đông để tỏa sáng các vùng đất khác trên thế giới (trong đó có châu Âu) thì đến thế kỉ XV và đầu XVI, hướng đi của lịch sử bắt đầu xoay chiều: từ Âu Châu, các làn sóng văn hóa và văn minh bắt đầu tỏ ngược sang châu Á. Đến thế kỉ XVII, XVIII, XIX, do tác động quan trọng của cuộc cách mạng kỉ thuật lần thứ nhất ở Anh, thì làn sóng văn minh của châu Âu lại càng “tiến công dồn dập” qua châu Á,  và hệ quả của tiến công đó là Việt Nam nói riêng và các nước Châu Á nói chung có một thời kì dài chịu sự xâm lược, cai trị của chủ nghĩa thực dân châu Âu.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, khi Việt Nam đứng trước nguy cơ mất độc lập dân tộc, có rất nhiều trí thức nhận thấy sự yếu kém về nội lực kinh tế, quân sự của đất nước và đã gửi lên triều đình rất nhiều kiến nghị cải cách các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, quân sự, xã hội, chính trị. Các kiến nghị này không chỉ nhằm mục đích trước mắt là tự lực tự cường, nâng cao sức mạnh vật chất, cả về quân sự và kinh tế để chống lại cuộc xâm lược của thực dân Pháp, mà còn nhằm mục trêu xa hơn và lâu dài, đó là xây dựng đất nước phát triển về mọi mặt sánh ngang, thậm chí vượt các cường quốc đương thời. Điển hình cho các nhà tư tưởng cải cách thời kỳ này là Nguyễn Trường Tộ, một người Công giáo đã có những tư tưởng vượt trước thời đại. Với một trí thông minh trời phú, một khả năng quan sát nhạy bén, một kiến thức sâu rộng, nay có dịp xuất dương học hỏi. quan sát và suy ngẫm, dần dần đã hình thành trong ông một ý tưởng cách tân trước tình canh quốc gia suy yếu và hiểm họa ngoại xâm rình rập mà khả năng mất nước là khó tránh khỏi Cũng cần nhắc lại một vài nét lịch sử khi Nguyễn Trường Tộ sinh ra và lớn lên. Năm 1859. thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định. Những năm tiếp theo, Pháp lần lượt chiếm 3 tỉnh miền Đông, rồi 3 tỉnh miền Tây. ông đã ra nước ngoài, ông đã thấy họa xâm lăng của người Âu lan tràn bốn cõi. Đó là thời mà quân Anh đã chiếm An Độ, Miến Điện, Xiêm La là "thân cá chậu". Triều Tiên, theo ông nhận định, như cái phố nhỏ cho bọn chúng điểm tâm buổi sáng". Nói tóm lại, các nước châu Á, các quốc gia lân bang đã trong tầm ngắm xâm lăng từ Tây sang.
2. Nội dung
2.1. Hoàn cảnh lịch sử dân tộc
            Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, thời điểm giữa thế kỉ XIX đầu XX là thời điểm đặc biệt. Đó là lúc chế độ phong kiến triều Nguyễn bước vào giai đoạn suy tàn, thỏa hiệp và làm tay sai cho thực dân pháp – kẻ thù đang xâm lược nước ta. Đất nước và dân tộc Việt Nam đứng trước thử thách sống còn: đất nước sẽ đi theo con đường nào, và khi đã bị thực dân Pháp thôn tính thì có giành lại độc lập dân tộc hay không, con đường phát triển của đất nước ra sao, theo chế độ dân chủ phương Tây, hay chế độ phong kiến, hay tiếp tục chế độ thực dân - thuộc địa nửa phong kiến hiện tại.
             Phong trào yêu nước trong nhân dân do các sĩ phu khởi sướng hoặc lãnh đạo lần lượt đứng lên đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và bọn tay sai cùng chế độ phong kiến lổi thời.
           Một xu hướng khác, đó là lực lượng bảo thủ trong triều đình phong kiến nhà Nguyễn gần như đầu hàng giặc, làm tay sai cho bè lũ thực dân nhằm bảo vệ chế độ phong kiến thoái nát và chế độ thực dân phản động.
           Xu hướng thứ ba là xu hướng thỏa hiệp, cầu hòa, vì thế nước lúc đó.
           Ngoài ra, cùng với xu hướng đó là xu hướng đấu tranh giữa tân học và cụ học, giữa truyền thống và hiện đại, khép kín và mở cửa.
          Rõ ràng, thời kỳ cuối thế kỉ XIX đầu XX, là thời kì tập trung nhiều mâu thuẫn thời đại, với sự phân hóa nhiều xu hướng và nhiều cách giải quyết rất khác nhau vấn đề trọng đại của đất nước. Đứng trước yêu cầu của lịch sử dân tộc, một nhân vật  Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm thời đại giữa thế kỷ 19 ở Việt Nam đã đưa ra hàng lọt cải cách để đưa đất nước thớt khỏi tinh “ngàn căn treo sợi tóc”
2.2. Chương trình canh đất nước của Nguyễn Trường Tộ
Trước tình xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây (Pháp) ông kiến nghị, thế địch đang mạnh, thế nước nhà đang yếu, hãy tạm hòa hoãn để tìm thời cơ. Ông đưa tờ trình mang tinh thần" hòa để tiến". Ông trình vua Tự Đức: Việc khẩn cấp nhất của đất nước là giữ cho được những gì chưa mất. Muốn vậy phải mau mau canh tân đất nước. Như vậy việc giữ nước không khó mà thu hồi những gì đã mất không chóng thì chầy cũng có thể hy vọng được. Mục đích canh tân là để nước mạnh, để giữ nước. Đó là tư tưởng nhất quán của Nguyễn Trường Tộ. Trong 14 tập tờ trình, ông đề cập tới nhiều lĩnh vực canh tân. Khai mở tình hình đại cuộc thế giới trước họa xâm lăng để vua và quần thần cùng suy ngẫm, tìm kế sách khôn khéo, lâu dài khôi phục chủ quyền những vùng đất bị mất, chính sách thuế má, khai thác tài nguyên, chính sách khai hoang, tinh binh tinh cán và hiện đại vũ khí trong quốc phòng, chính sách đổi mới giáo đục, gửi học sinh du học tại các quốc gia có nền kỹ nghệ tiên tiến, mở cửa, bắt tay với nhiều quốc gia để học hỏi và để mưu đồ chống thực dân xâm lược v.v..
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam lâm vào tình trạng bế tắc, khủng hoảng mà nguyên nhân chủ yếu là do thái độ bảo thủ, trì trệ của vua quan nhà Nguyễn. Trong khi đó nguy cơ xâm lược của thực dân phương Tây ngày càng hiện rõ, đe dọa nghiêm trọng nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Trước bối cảnh như vậy, những người yêu nước và thức thời không thể có thái độ bàng quan, không thể đứng ngoài cuộc; họ đã lên tiếng đề xuất với triều đình nhiều phương án đổi mới, những việc làm cấp bách, những phương kế để ổn định xã hội, làm cho nước giàu, dân mạnh. Tất cả đã hình thành nên trào lưu canh tân với các gương mặt tiêu biểu như: Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch…Trong đó, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) là nhân vật đặc biệt nhất với những đề xuất táo bạo có tính khái quát cao trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện một tầm nhìn sâu rộng, tư tưởng kiệt xuất. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá rằng nếu những chương trình canh tân của Nguyễn Trường Tộ được thực hiện thì Việt Nam không những thoát khỏi cảnh bị thực dân đô hộ mà còn trở thành một cường quốc từ đầu thế kỷ XX. Tiếc rằng những ý tưởng, hoài bão lớn lao cũng như các đề xuất cải cách mà ông đưa ra không được thực hiện.
Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ bao quát trên mọi lĩnh vực, nó được chứng minh qua 58 bản điều trần mà ông gửi lên triều đình nhà Nguyễn trong vòng 8 năm, từ 1863 cho đến khi ông qua đời năm 1871. Tất cả được đúc kết từ việc tìm hiểu kinh nghiệm của nước ngoài cũng như học hỏi kiến thức hiện đại rồi vạch ra chương trình canh tân bao quát nhất, tâm huyết nhất. Một trong các phương án cải cách, Nguyễn Trường Tộ rất chú trọng đến vấn đề cải cách quân sự, đặc biệt là trong hoàn cảnh thực dân Pháp đã nổ súng tấn công vào Đà Nẵng năm 1858, mở đầu hoạt động chiến tranh xâm lược nước ta. Ngoài các kế sách nhằm tăng cường khả năng phòng thủ đất nước được trình bày rải rác trong các bản điều trần, Nguyễn Trường Tộ còn soạn thảo 7 văn bản riêng về lĩnh vực quân sự, thậm chí rất tỉ mỉ, chi tiết như kế hoạch thu hồi 6 tỉnh Nam Kỳ, kế hoạch đánh úp thành Gia Định…Trong Tế cấp bát điều (8 việc cần làm cấp bách) viết năm 1867, ông nêu nên việc hàng đầu là phải “gấp rút sửa đổi việc võ bị”.
Về cơ bản, các đề xuất cải cách quân sự của Nguyễn Trường Tộ được thể hiện trên các mặt sau:
- Nhận thức đúng vai trò của quân sự: Nói đến quân sự là nói đến việc binh, võ bị; một yếu tố quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia, đây là lực lượng giữ gìn ổn định, bảo vệ đất nước, trấn áp các hoạt động chống đối, nội loạn. Theo Nguyễn Trường Tộ, “một quốc gia hữu sự, nếu không có vũ lực trấn áp thì cả quốc gia, quan quyền, dân thú, luật lệ, chính sự, pháp độ đều phải giao vào tay quân địch”. Vì thế “nếu nước ta không gấp rút sửa đổi theo mới, để cho võ bị càng suy, nhân tâm càng yếu thì lấy gì chống giặc, bảo vệ nhân dân”.
- Coi trọng quân sự: Nguyễn Trường Tộ phê phán mạnh mẽ tư tưởng “trọng văn khinh võ” bằng việc nêu ra hình ảnh: “văn ví như cái áo đẹp, võ như cái thức ăn để tẩm bổ khí huyết cường tráng. Người mà không có khí huyết thì chết. Dẫu có áo đẹp mà không tu bổ khí huyết cũng là vô dụng”.
- Xây dựng học thuyết quân sự, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới: Theo Nguyễn Trường Tộ phải thay đổi vì: “Thời đại nào có chế độ ấy. Con người sinh ra vào thời đại nào thì cũng chỉ đủ làm công việc của thời đại ấy mà thôi. Vậy thì người sinh ra vào thời xưa làm xong công việc của thời xưa, rồi dần dần thế đổi dời, làm sao có thể mỗi ôm giữ phép xưa mãi được”, “phép chiến đấu xưa nay khác xa nhau lắm”. Do đó “hãy đem các sách binh thư này…ra xét lại. Phàm sách nào, chỗ nào nghĩa lý không xác đáng, khí giới lỗi thời, kỹ thuật không hiệu nghiệm, địa thế không cho phép, khí hậu không hợp và tất cả những gì thi hành không kết quả phải bỏ hết, chỉ lựa chọn lấy những gì phù hợp với ngày nay, liên quan đến tình hình nước ta”. Từ việc tìm hiểu một cách cụ thể, Nguyễn Trường Tộ kết luận rằng: “Tôi đã đọc nhiều binh thư và sách vở linh tinh khác nói về binh sự thì thấy rằng chiến pháp của cổ nhân, ngày nay không còn thích dụng nữa”. Vì thế “hãy mời những người có tên tuổi, những người có kỹ xảo, biết quyền biến cùng nhau khảo cứu” để xây dựng học thuyết quân sự mới, “soạn thành sách binh thư mới và ban bố cho quan quân cùng học tập”.
-  Đổi mới trang thiết bị quân sự, vũ khí chiến đấu mang tính hiện đại để có thể đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới. Sự lạc hậu về vũ khí chính là một nguyên nhân dẫn tới thất bại khi có chiến tranh, Nguyễn Trường Tộ nhận xét rất đúng: “người xưa làm cung tên để đánh giặc, sử dụng giỏi có thể thắng. Nhưng nay đem địch với đại pháo thì cung tên chỉ là trò chơi con nít mà thôi. Cho dẫu có tài bắn hay cũng khó tránh khỏi thua bại”. Muốn tránh điều đó “phải chế tạo các loại vũ khí mới lạ, có thể đối phó được với giặc, cất vào kho vũ khí để sử dụng khi cần thiết”.
-  Xây dựng cơ sở quân sự, đóng giữ các nơi hiểm yếu, quan trọng vì thế trước tiên phải “xem xét thật kỹ địa hình”, sau đó xây dựng đồn lũy, nhất là “ở các cửa sông”. “Những đồn lũy mới cất ngày đêm phải có lính canh giữ cẩn mật như là khi có giặc vậy”. Nguyễn Trường Tộ còn đề xuất: “ở các cửa biển và tỉnh thành, kinh thành chỗ nào cần có tường hào thì đều xây hào ngay thẳng chỉnh tề”. Tại các nơi quan trọng, việc bố phòng, canh gác phải thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc: “Tất cả những nơi cung vua, dinh quan, kho quân sự, cổng thành, đường sá và ở những chỗ quan yếu trong thành cũng như ngoài thành cần phải phòng thủ thì không kể mưa gió, ngày đêm phải canh gác nghiêm ngặt như là đang có giặc bao vây, tấn công vậy”.
- Nâng cao trình độ học vấn của quân lính: Muốn làm được điều đó phải có một nền giáo dục tốt, chính sách giáo dục phù hợp, nếu không “phong tục sẽ ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối, phù phiếm, trống rỗng”. Ông viết: “Đại phàm bản tính người ta, nếu chỉ bằng vào tư chất thông minh của mình mà không chịu học tập thì so với người tầm thường nhưng có học vấn cứ phải thua họ rất xa”.
- Nâng cao chất lượng quân lính bằng việc “chọn lấy tráng binh tuổi từ 20 trở lên, chưa có gia đình. Ngoài ra phải thải bớt lính già yếu, bớt đi một nửa lính, lấy số lương cấp gấp đôi cho tráng binh còn lại”. Phải thường xuyên rèn luyện quân sự bởi “việc võ thực là rất khó. Học khó, hành khó” cho nên “học được cái gì, đem ra tập luyện cái ấy”. “Phàm là lính hãy để cho họ chuyên luyện tập mà không sai làm việc tạp dịch khác”. Việc thường xuyên diễn tập quân sự không chỉ nâng cao kỹ năng chiến đấu mà thông qua việc “diễn tập công khai, dân chúng có thể học tập để tuyển dụng sau này”.
- Đào tạo đội ngũ tướng lĩnh giỏi, vì “tướng như tai mắt, lính như chân tay. Mắt mù, tai điếc mà điều khiển được chân tay là chuyện chưa hề có”. Việc xây dựng đội ngũ tướng lĩnh tập chung vào chất lượng chứ không thiên về số lượng, bởi “quan võ có tài, dù nhiều việc cũng thừa thì giờ giải quyết, còn bất tài thì chính bản thân cũng không sắp xếp được, nói gì đến quản lý, điều khiển người khác. Cho nên phải thận trọng lựa chọn quan giỏi và thải bớt quan dở”, đồng thời “ thường kỳ phải khảo hạch kiến thức võ quan”.
- Coi trọng kỷ luật quân đội, tạo tính nghiêm minh, thống nhất, do đó khi “có ra lệnh cho cấp dưới thì đó cũng là bổn phận cấp dưới phải làm, mà làm cũng dễ” và “bởi vì điều cần yếu là binh lính phải một lòng tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, chứ không cần nhiều sĩ quan kiềm chế họ”.
- Có chính sách đãi ngộ quân đội một cách xứng đáng, nếu “cho ăn không đủ no mà mong người ta không nề hà nguy hiểm, đãi lính như nô tù mà mong lính xả thân, coi nhẹ cái chết thì sao được”. Nguyễn Trường Tộ chỉ ra kinh nghiệm của nước ngoài khi cho biết “các tráng binh bên Tây được ăn uống ngon lành, suốt đời hưởng lộc. Khi tại ngũ có lương dư thừa chu cấp cho cha mẹ, vợ con, anh em”, “nếu vì nước hi sinh, vợ sẽ được lãnh lương suốt đời”. Còn các tướng lĩnh, “quan võ nếu lập công với quốc gia thì được thăng cấp, hưởng mãi số lương theo cấp đó…”.
- Tạo dựng mối quan hệ tốt giữa binh lính và tướng lĩnh. Nguyễn Trường Tộ phản đối thái độ coi thường người lính, “không nên bắt lính hầu hạ quan”, “không được sỉ nhục, ngược đãi binh lính”. Cần phải có sự đoàn kết, gắn bó vì “lính với cai đội, cai đội với tướng cũng như ngón tay với bàn tay, bàn tay với cánh tay, cánh tay với thân thể, có hòa hợp với nhau thì mới vận động được”. Do đó “binh lính có vui vẻ, hăng hái hay không là do lúc bình thường ta có tạo được tình cảm gắn bó ân nghĩa với nhau hay không”, “khi ra trận, khi gặp khó khăn thì quan và lính mới cùng chia sẻ vui buồn, dựa vào nhau”. Nếu không có sự đoàn kết, gắn bó thì “binh sĩ không có tinh thần chiến đấu, dù có phương pháp hay cũng trở thành bánh vẽ”, vì thế “không sợ giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc, lòng người rời rạc thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ chạy. Ai ở đó mà chịu chết cho”.
- Học tập, tiếp thu những ưu điểm trong nghệ thuật quân sự của nước ngoài bằng cách “rước những người phương Tây giỏi về quân sự...phối hợp với võ quan ta để luyện tập cho quân sĩ mỗi ngày…”, hoặc “nên mời quan Tây giỏi võ bị để dạy cho quan ta”. “Ngoài ra cũng phải mua các sách binh pháp thủy bộ của phương Tây dịch ra để mà tham khảo học tập”.
- Coi trọng hoạt động tình báo vì “ta không thấu hiểu được tình hình thiên hạ, không hiểu rõ thời cơ của ta, của địch hư thực như thế nào, thành kiến thật kiên cố, không thể phá được”. Hoạt động tình báo rất quan trọng, “cài người của mình vào hàng ngũ địch để tìm hiểu tình hình của địch”, phải “lập mưu khéo léo ngăn chặn họ”, “tự mình phải hiểu rõ thế mạnh của ta, của người, nắm cho được cơ hội giao thiệp qua lại, từ đó để quyết định cho phù hợp…Đó là việc khó nhất trong các việc khó”. Tại những vùng địch kiểm soát ta phải “ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng ngay trong địa bàn của địch, bí mật kết hợp với người sở tại để đánh úp địch”.
Có thể nói đề xuất cải cách quân sự là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của chương trình canh tân đất nước mà Nguyễn Trường Tộ gửi lên triều đình nhà Nguyễn. Với bổn phận và trách nhiệm của một người dân đối với đất nước, Nguyễn Trường Tộ mong muốn đóng góp một phần trí lực vào sự giàu mạnh, cường thịnh của dân tộc, của đất nước. Ông bộc bạch rằng: “Tôi mặc dầu tài có kém nhưng quả tim có thừa, không có phận nhưng có chí cho nên tai nghe, mắt thấy được gì, nó thúc giục như làm được việc lớn lao vậy. Tôi quyết không vì thế mà nản chí, thay lòng”. Tiếc rằng những đề xuất cải cách của ông cũng như của các nhân vật thức thời, tiến bộ khác đã không được triều Nguyễn chấp nhận; kết cục dẫn tới bi kịch “nước mất, nhà tan”, dân tộc ta phải chịu xích xiềng nô lệ gần 100 năm. Ngày nay, khi mở lại trang sử cũ, “ôn cố tri tân”, chúng ta không chỉ kinh ngạc và khâm phục tài năng của Nguyễn Trường Tộ mà còn thấy được rằng dù thời gian đã trôi qua nhưng những bài học, tầm nhìn sâu rộng của ông thể hiện trong từng kế sách còn nguyên giá trị cho cả hiện tại và tương lai. 
2.3. Nguyên nhân tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ bị thất bại, trong đó có cải cách về quân sự
            Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ lúc đó không thành hiện thực, do nhiều nguyên nhân sâu xa và toàn diện chứ không phải vì triều đình không chịu nghe theo có phần chưa thiết phục. Trước hết nhìn nhận từ yêu cầu lich sử dân tộc là làm thế nào cho cả dân tộc phát triển lên, thoát khởi sự xâm lược của thực dân pháp?
Để trả lời câu hỏi này lại xuất hiện một mâu thuẩn lớn ngay trong tư tưởng tư tưởng của Nguyễn Trường Nguyễn Trường Tộ là:
                     Một là: đưa đất nước đi lên bằng con đường là đưa những yêu sách canh tân đất nước của mình cho nhà vua thực hiện, phương pháp này phù hợp với truyền thống dân tộc và hơn ai cả phù hợp với tư tưởng yêu nước của ông, con đường khó thực hiện được, gặp sự rào cản của Vua và quan thần lúc này vì chẳng bao giờ một Vua nào lại tỏ ra yếu kém trong đường lối trị nước của mình với thần dân. nước ta lúc đó thiếu một cơ sở xã hội nhất định làm điểm tựa, mặc dù nhà Nguyễn cũng có tiếp thu một số ít chương trình canh tân nhưng lại mang tính nữa vời, thiếu quyết đoán đã làm cho tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ đi đế thất bại        
             Hai là: con đường thứ hai mà phải lựa chọn có vẻ không phù hợp với hai yếu tố trên là đi ngược lại truyền thống dân tộc, là một cuộc đảo chính lật đổ ngôi vua thiết lập nên một thể chế mới để có thể trực tiếp thực hiện hài bảo của mình. Với tấm lòng yêu nước nhiệt thành, không cho phép ông thực hiện con đường này.
             Ba là: Đều dễ thấy bao hàm trương trình cải cách của Nguyễn Trường Tộ là cải cách kinh tế đi trước mà không coi trọng cải cách thể chế chính trị, trong yêu cầu của lịch sử là phải thay đổi ngay “kiến trúc thượng tầng trước sau đó mới đủ quyền lực cải cách cơ sở hạ tầng”.
2.4. Đánh giá cải cách Nguyễn Trường Tộ
Vị thế của Nguyễn Trường Tộ chỉ được nhìn nhận và đánh giá ở một mức độ nhất định trong nhãn quan của triều Nguyễn. Thực tế là sự hoài nghi của triều đình về con người Nguyễn Trường Tộ cũng như những đề nghị cải cách của ông vẫn tồn tại. Sự hoài nghi này ngăn cản quyết tâm của triều đình trong việc thực hiện canh tân đất nước.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nguyễn Trường Tộ đến các trí thức có tâm huyết với đất nước sau đó lại rất mạnh. Ông là người mở đầu cho trào lưu canh tân đất nước ở nửa sau thế kỷ XIX và tư tưởng của ông đã khởi nguồn cho một dòng chảy cách tân sôi động trong lịch sử dân tộc. Cùng thời và sau thời của ông có rất nhiều tên tuổi của các trí thức: Đinh Văn Điền, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch,… đã ý thức được vấn đề quan trọng là thực hiện cải cách, làm cho đất nước giàu mạnh. Đặc biệt, Nguyễn Lộ Trạch (1852 – 1895) người làng Kế môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Là một người học rộng, biết nhiều nhưng không có mục đích đi thi để làm quan. Ông có điều kiện tiếp xúc với các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ và nhanh chóng ảnh hưởng từ các điều trần đó. Đặc biệt là chủ trương coi vấn đề canh tân đất nước là một phương pháp để cứu nước. Vấn đề hoà với Pháp một cách tạm thời, tranh thủ thời gian hoà để cải cách, tạo ra thực lực chống Pháp. Coi vấn đề chính trị và giáo dục, quân sự, đặc biệt là giáo dục có vai trò quyết định sự thịnh suy của quốc gia. Như vậy, đối với các trí thức cùng chí hướng với ông, Nguyễn Trường Tộ có một vị trí quan trọng.
Trong bối cảnh lịch sử những năm 60 của thế kỷ XIX, tình hình Việt Nam có nhiều biến cố lịch sử. Vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, vị thế của Nguyễn Trường Tộ chưa được nhìn nhận hợp lý. Cũng vì vậy, triều đình mới thực hiện được phần nào những kiến nghị của ông, còn đa phần những chủ trương cải cách của Nguyễn Trường Tộ vẫn nằm im trên giấy tờ.
2.5. Bài học cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước hiện nay
Tình hình quốc tế hiện nay, một số nước ở Bắc Phi, Trung Đông, vấn đề khủng hoảng hạt nhận, vi phạm chủ quyền…… đang mất ổn định nghiêm trọng, đe dọa đến an ninh, chủ quyền một số nước. Mất ổn định thì không phát triển được. Người lao động của các nước phải sơ tán, kinh tế sẽ trì trệ, giá dầu mỏ tăng lên và đẩy giá các loại hàng hóa khác lên, gây ảnh hưởng một phần phát triển kinh tế thế giới. Nhìn lại chúng ta thấy môi trường hòa bình, ổn định của đất nước quan trọng biết nhường nào. Trách nhiệm của chúng ta phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Chúng ta phải tranh thủ mọi thời cơ để xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện. Trước hết xây dựng về chính trị; quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng, bảo vệ thành quả cách mạng mà các thế hệ đi trước đã xây dựng nên. Lấy xây dựng con người là quyết định. Con người được giác ngộ chính trị toàn diện, mang truyền thống, bản chất giai cấp công nhân, của quân đội cách mạng, giữ được phẩm chất truyền thống Bộ đội Cụ Hồ……
Đất nước ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) để thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH vì thế việc cải cách, xây dựng quân đội, trang bị các loại vũ khí tiên tiến là đều cần thiết.
3. Kết luận
        Có thể nói, khuynh hướng cải cách, canh tân của Nguyễn Trường Tộ xuất hiện ở Việt Nam nữa cuối thế kỉ XIX là một thành tựu lớn của tư duy Việt Nam, đã xuất hiện những tư tưởng canh tân tiến bộ thời bấy giờ tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, với tấm lòng yêu nước nhiệt thành, ông đã đề xuất những tư tưởng canh tân đất nước thiết thực, với hi vọng có thể thay đổi tình thế đất nước, phát triển mở mang kinh tế, tạo tiềm lực thúc đẩy đất nước phát triển để tránh khỏi họa mất nước.
      Qua sự thất bại của tư tưởng cải cách, canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ đã để lại bài học cho công cuộc đổi mới hiên nay của đất nước ta. Trong bối cảnh an ninh quốc gia luôn bị đe doạ thì tư tưởng cải cách, đổi mới về lĩnh vực quân sự cần được quan tâm đúng mức.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét