Một trong những vấn đề thời
sự nổi bật, thu hút sự quan tâm của dư luận quốc tế hiện nay là trật tự thế
giới mới đơn cực hay đa cực? Sự tan rã của Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Đông Âu đã phá vỡ trật tự thế giới hai cực, kéo theo những sự đảo lộn
sâu rộng trên nhiều phương diện của thế giới.
Sau chiến tranh lạnh, thế giới "đơn cực"
1. Trật tự thế giới
Trật tự thế giới được xem như tiêu chí cơ bản định
đoạt thực trạng các mối quan hệ quốc tế hiện có hoặc sẽ có của thế giới. Trật
tự này được xác lập bằng các hiệp ước, hiệp định và luật pháp quốc tế điều
chỉnh các mối quan hệ quốc tế. Sự xác lập đó có thể thông qua con đường bạo lực
hoặc không bạo lực, sử dụng sức mạnh quân sự hoặc thỏa hiệp ngoại giao. Vì vậy,
trật tự thế giới thường phản ánh thế so sánh lực lượng giữa các quốc gia dân
tộc, giữa các thế lực chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự to lớn có ảnh hưởng
đến cộng đồng quốc tế.
Quan niệm về trật tự thế giới chỉ mang tính tương đối.
Vì rằng trật tự thế giới là cái vừa định hình vừa khó định hình; vừa cụ thể vừa
trừu tượng; vừa tương đối ổn định vừa không ổn định với hàm nghĩa linh hoạt.
Trong năm thế kỷ qua, lịch sử thế giới đã diễn ra sáu thời kỳ trật tự đa cực và
chỉ một lần là hai cực(1).
Thời kỳ trật tự hai cực do Liên Xô và Mỹ đứng đầu mỗi cực. Nhưng ngay từ những
năm 60, 70 thế kỷ XX cũng đã có đánh giá thế giới đang chuyển sang đa cực, khi
xuất hiện 2 trung tâm kinh tế mới là Tây Âu, Nhật Bản và việc Trung Quốc công
khai tách khỏi phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu. Có thể nói, vào thời
gian đó đã xuất hiện hình thái chiến lược "hai siêu cường và nhiều cường
quốc" cùng với trên một trăm nước mới thoát khỏi chế độ thuộc địa thực dân
hợp thành phong trào Thế giới thứ ba trên vũ đài quốc tế.
2. Mỹ ở đỉnh cao quyền lực
thực hiện chiến lược đơn cực
Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ là siêu cường duy nhất còn
lại, đưa ra chiến lược toàn cầu mới, mưu toan thâu tóm toàn bộ thế giới vào
"kỷ nguyên hòa bình Mỹ", biến thế kỷ XXI là "Thế kỷ Mỹ".
Mưu đồ này được thể hiện trong bài báo "Thời điểm đơn cực" của Nhà
báo Mỹ C. Crao-tham-mơ trên tờ Các vấn đề đối ngoại số 1/1991 và được nhấn mạnh
như sau: "Thế giới sau chiến tranh lạnh không phải là đa cực mà là đơn
cực. Mỹ là siêu cường duy nhất có sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế không ai
có thể thách thức và là tay chơi quyết định trong bất cứ cuộc xung đột nào ở
bất cứ nơi nào trên thế giới mà Mỹ dính líu vào"(2).
Như vậy, về mặt lý luận cũng như thực tiễn, khái niệm và chiến lược đơn cực
mang ý nghĩa tuyệt đối, không phù hợp với hình thái chiến lược mới và không
được dư luận quốc tế đồng tình, đi vào ngõ cụt. Vì thế, một quan niệm mới xuất
hiện mang tên "Thế giới một siêu cường nhiều cường quốc". Song, thực
chất không có gì khác so với khái niệm thế giới đơn cực với hàm nghĩa tương
đối.
Với chiến lược "Vượt trên ngăn chặn",
"Vượt lên hòa bình", Tổng thống G. Bu-sơ (cha) ngày 11-9-1990 tuyên
bố "thiết lập trật tự thế giới mới", phát động chiến tranh vùng Vịnh
lần thứ nhất (1991) và đưa lực lượng tới đóng quân lâu dài ở Trung Đông. Không
bằng lòng với chiến lược "Dính líu và mở rộng" của chính quyền B.
Clin-tơn, bị xem là "ủy mị" "giữ nguyên trạng". Chính quyền
G. Bu-sơ (con) đưa ra chiến lược toàn cầu mới với 3 nội dung cốt lõi: mở rộng
quyền đơn phương đánh đòn phủ đầu thành học thuyết chiến tranh phòng ngừa mới;
dân chủ hóa các nước Hồi giáo Trung Đông và thay đổi chế độ chính trị ở các
nước mà Mỹ liệt vào "Trục ác quỷ" dám chống lại Mỹ; thực hành ngoại
giao đơn phương, giảm bớt sự tùy thuộc của Mỹ vào các liên minh truyền thống và
các tổ chức quốc tế kể cả Liên hợp quốc. Những yếu tố này được thể chế hóa
trong chiến lược an ninh quốc gia Mỹ năm 2002. Dựa chủ yếu vào thế lực
"bảo thủ mới" trong Đảng Cộng hòa, Tổng thống G. Bu-sơ (con) ngang
nhiên tuyên bố với thế giới rằng các nước không thể giữ thái độ mập mờ, mà phải
lựa chọn hoặc Mỹ hoặc các thế lực chủ nghĩa khủng bố. Sau chiến tranh chống lực
lượng Ta-li-ban ở áp-ga-ni-xtan, bất chấp sự phản đối của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc và nhiều nước đồng minh (Pháp, Đức...), Mỹ đã phát động chiến tranh ồ
ạt, chớp nhoáng xâm lược I-rắc (3-2003). Tuy lật đổ được Tổng thống X. Hu-xê-in
và mặc dù duy trì liên tục một đội quân chiếm đóng lớn trang bị vũ khí công
nghệ cao tối tân nhất nhưng Mỹ vẫn bị sa lầy, lính Mỹ bị chết và thương vong
nhiều, chi phí tốn kém hơn bất cứ cuộc chiến tranh cục bộ nào của Mỹ trước đây.
Như vậy, từ năm 1991 tới khi xâm lược I-rắc (3-2003),
trước các đối thủ tiềm tàng như Nga bị suy yếu nghiêm trọng, Trung Quốc mới bắt
đầu trỗi dậy, Ấn Độ chưa ra khỏi thời kỳ kinh tế trì trệ, Nhật Bản lâm vào suy
thoái kéo dài, Liên minh châu Âu bị chia rẽ, Mỹ là đế quốc toàn cầu có sức mạnh
áp đảo so với bất cứ đối thủ cạnh tranh nào khác, đã ngang nhiên tìm cách thao
túng tình hình quốc tế, tìm cách thọc sâu vào không gian hậu Xô-viết, mưu toan
thực hiện chiến lược đơn cực, đơn phương bá chủ thế giới.
Thế giới đơn cực đang dịch chuyển sang đa cực
1. Vị thế siêu cường của Mỹ
giảm sút
Mấy năm gần đây, dư luận quốc tế, kể cả Báo cáo
"Kế hoạch đến năm 2020" (Project 2020) của Hội đồng Tình báo quốc gia
Mỹ (công bố ngày 6-1-2005), đều có đánh giá tương đối thống nhất như "Chủ
nghĩa khu vực mới: dịch chuyển tới đa cực", "Một siêu cường kém siêu
cường hơn", "Siêu cường duy nhất đang tụt dốc, thế giới đa cực đang
lên", "Quyền lực của Mỹ đang xói mòn"... Sự suy yếu vị thế siêu
cường của Mỹ thể hiện trên nhiều mặt. Về
quân sự, với một lực lượng hùng hậu chiếm đóng I-rắc, lực lượng Mỹ bị
căng kéo dàn trải, tạo ra mối nghi ngờ là Mỹ khó lòng phát động một đòn đánh
phủ đầu mới ở nơi khác. Qua cuộc chiến tranh I-rắc và Áp-ga-ni-xtan, lực lượng
quân sự Mỹ bộc lộ nhiều hạn chế và dễ bị tổn thương. Về kinh tế thể hiện nhiều điểm yếu như: đồng đô-la Mỹ bị suy giảm,
ngoại thương và ngân sách thường xuyên bị thâm hụt, Mỹ từng là chủ nợ chuyển
thành con nợ khổng lồ ở cả trong và ngoài nước. Về văn hóa, đạo lý, Mỹ đã bất
chấp luật pháp quốc tế, thi hành chính sách ngoại giao đơn phương, không chịu
ký nhiều hiệp ước quốc tế, nhất là hiệp định Ky-ô-tô về giảm khí thải độc hại
gây hiệu ứng nhà kính, đàn áp dã man tù nhân ở Abu Gra-ip (I-rắc) và
Guan-ta-na-mô (Cu-ba), thu hẹp dân chủ ở trong nước...
Hậu quả là chỉ số tín nhiệm của nhân dân thế giới kể
cả Tây Âu đối với Mỹ ở mức thấp nhất từ trước đến nay. ở trong nước, nhân dân
Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, ngày càng chống lại việc đưa con em họ tới I-rắc; Đảng
Dân chủ đã đánh bại Đảng Cộng hòa của Tổng thống G. Bu-sơ trong cuộc bầu cử
giữa nhiệm kỳ thứ hai (2006).
Bước sang nhiệm kỳ hai, đúng như dự báo của "Kế
hoạch đến 2020", Chính quyền G. Bu-sơ đã phải điều chỉnh chính sách đối
ngoại bá quyền, gạt ra khỏi bộ máy quyền lực nhiều nhân vật bảo thủ mới, tìm
cách hàn gắn mâu thuẫn với châu Âu "cũ" và linh hoạt hơn trong chính
sách dân chủ hóa Trung Đông và "Trục ma quỷ".
2. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của
các cường quốc
Đồng thời với sự suy giảm vị thế chiến lược của Mỹ,
Nhật Bản và nhiều nước châu Âu là sự vươn lên mạnh mẽ của các nước mới trỗi
dậy, bao gồm các nước thuộc Liên Xô - Đông Âu cũ, bốn con rồng châu á, Trung
Quốc, ấn Độ, Bra-xin và các nước đang phát triển. Kể từ năm 2005, GDP của
"thế giới" mới trỗi dậy - tính theo sức mua tương đương - chiếm trên
50% GDP toàn cầu, tức vượt GDP tính theo sức mua tương đương của các nước phát
triển. Nếu tính theo tỷ giá hối đoái con số trên là 30%. Với cách tính này, GDP
của "thế giới" mới trỗi dậy cũng chiếm trên một nửa sự tăng trưởng
của sản lượng toàn thế giới năm 2005.
Theo hàng loạt chỉ số thống kê trong các Báo cáo viễn
cảnh kinh tế thế giới (WEO) của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) những năm gần đây,
trọng tâm kinh tế thế giới đang dịch chuyển từ các nền kinh tế phát triển sang
các nền kinh tế mới trỗi dậy, chủ yếu là châu á. Hiện nay, các nước đang phát
triển tiêu thụ trên một nửa năng lượng thế giới và nắm giữ trên 70% dự trữ
ngoại tệ thế giới. Tỷ trọng ngoại thương của các nước này từ 20% năm 1970 tăng
lên trên 43% ngoại thương thế giới. Hiện nay, tính theo sức mua tương đương,
GDP của Trung Quốc vượt Nhật Bản, bằng 76% GDP của Mỹ, sẽ vượt Mỹ trong vòng
mười năm tới; còn nếu tính theo tỷ giá hối đoái, Trung Quốc đã vượt Anh (2005),
vượt Đức (2007), sẽ vượt Nhật Bản (2016) và Mỹ (2025 hoặc 2040). Nền kinh tế
Nga hiện đứng thứ 7 sẽ lọt vào tốp 4 nước dẫn đầu thế giới vào năm 2020. Nền
kinh tế Ấn Độ - tính theo sức mua tương đương - đứng thứ 3 thế giới vào 2006 và
sẽ vẫn giữ vị trí này trong tương lai. Theo dự báo của IMF, trong vòng 5 năm
tới, các nền kinh tế mới trỗi dậy sẽ tăng trưởng trung bình 6,8%/năm, trong khi
các nền kinh tế phát triển chỉ tăng 2,7%/năm. Nếu 2 nhóm nước này tiếp tục tăng
trưởng với nhịp điệu này thì trong vòng 20 năm tới, các nền kinh tế mới trỗi
dậy sẽ chiếm hai phần ba tổng sản lượng kinh tế toàn cầu (theo sức mua tương
đương)(3).
Như vậy là sự dịch chuyển sức mạnh toàn
cầu, trước hết là sức mạnh kinh tế, đang trong quá trình hình thành. Một khi
cán cân sức mạnh kinh tế trên thế giới thay đổi, tất yếu về lâu dài cán cân sức
mạnh chính trị cũng không thể không thay đổi. Cục diện thế giới đã và đang trải
qua nhiều thời điểm biến động. Mỹ không còn là siêu cường ở đỉnh cao quyền lực
đóng vai thống soái trong công việc quốc tế như cách đây một thập kỷ. Thế giới
đơn cực đang chuyển dịch sang đa cực. Đây là một quá trình trong đó vai trò chi
phối của Mỹ giảm sút dần, vai trò của các cường quốc đang trỗi dậy cùng các
nước trung bình và nhỏ năng động ngày càng lớn mạnh và trở thành chủ đạo./.
(1) Xem: A multipolar Peace. Great Power
Politics in the twenty first century, New
York , 1994, P 69
(2) Xem: The Unipolar Moment, Foreign affairs,
số 1/1991
(3) A survey of the world economy: the new
titans, The Economist (16-9-2006) và Project 2020
http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=6&news_ID=6654757
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét