MỤC
LỤC
Trang
A.PHẦN MỞ ĐÂU:.................................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................. 3
2. Lịch sử vấn đề....................................................................................................................... 4
3. Mục tiêu và nhiệm vụ
nghiên cứu...................................................................................... 5
3.1 Mục tiêu
nghiên cứu
3.2 Nhiệm vụ
nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi
nghiên cứu...................................................................................... 5
4.1 Đối tượng
nghiên cứu
4.2 Phạm vi
nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................... 6
6. Đóng góp đề tài..................................................................................................................... 6
7. Cấu trúc đề tài....................................................................................................................... 6
B. PHẦN NỘI DUNG:............................................................................................................. 7
Chương 1: Cơ sở mối quan hệ
chính quyền Đàng Trong – Xiêm trong
các thế kỉ XVII- XVIII.............................................................................................................. 7
1.1 Quá trình Nam tiến của
người Việt trong thế kỉ XVII- XVIII
1.1.1 Bối cảnh của quá trình Nam tiến............................................................................ 7
1.1.2 Công cuộc mở rộng lãnh thổ về phương nam của các chúa
Nguyễn................. 8
1.1.3 Sự hình thành bộ máy chính quyền Đàng Trong................................................... 15
1.2 Nước Xiêm trong các thế
kỉ XVII- XVIII......................................................................... 17
1.2.1 Tình hình kinh tế - xã hội........................................................................................ 17
1.2.2 Tình hình chính trị.................................................................................................... 19
1.3 Mối quan hệ giữa nhà nước phong kiến Đại Việt với Xiêm
trước thế kỉ XVII...................................................................................................................... 19
Chương 2: Quan hệ chính
quyền Đàng Trong- Xiêm
trong các thế kỉ XVII –
XVIII.................................................................................................. 20
2.1 Yếu tố tác động đến mối
quan hệ chính quyền Đàng Trong- Xiêm............................ 20
2.1.1 Bối cảnh khu vực...................................................................................................... 20
2.1.2 Yếu tố kinh tế - chính trị.......................................................................................... 23
2.1.3 Yếu tố Chân Lạp........................................................................................................ 26
2.1.4 Yếu tố Ai Lao............................................................................................................. 27
2.2 Tác động của mối quan
hệ chính quyền Đàng Trong – Xiêm
trong các thế kỉ XVII –
XVIII.................................................................................................. 29
2.2.1 Đối với chính quyền Đàng Trong............................................................................ 29
2.2.2 Đối với phong kiếm Xiêm........................................................................................ 35
2.2.3 Đối với một số nước trong khu vực........................................................................ 35
2.3 Nhận xét mối quan hệ
chính quyền Đàng Trong – Xiêm
trong các thế kỉ XVII – XVIII................................................................................................. 38
C. KẾT LUẬN........................................................................................................................... 40
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 41
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỉ XVII- XVIII, là một thế kỉ đầy biến động trong khu vực Đông Nam Á
lục địa, một thế kỉ của sự chia rẽ và
tranh giành ảnh hưởng trong khu vực. Người Việt cũng không thoát khỏi tình trạng
đó, từ khi vua Thái tổ Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, thì cục diện
Bắc Nam
đã bắt đầu xuất hiện ở Đại Việt, với sự cai trị đúng đắn của chúa Nguyễn đã đưa
Đàng Trong ngày trở nên hùng mạnh và phạm vi lãnh thổ cũng được mở rộng qua các
cuộc Nam
tiến của chúa Nguyễn.
Nước xiêm, nay là Thái Lan, là một nước ở Đông Nam Á, diện
tích (hiện nay) là 514.000 km2, giáp Lào về Bắc và Đông Bắc, Mianma ở phía Tây
Campuchia ở phía Đông, vịnh Thái Lan và biển Andaman bao bọc dải đất cực Nam.
Tên nước là Thái Lan có nghĩa là “đất nước của người Thái” nhưng thật ra là đất
nước của nhiều dân tộc đã từ lâu chung sống với nhau và tạo nên một cộng đồng
đa dân tộc.
Xiêm thế kỉ XVII- XVIII với
sự thống nhất chưa chắc chắn, cát cứ vẫn còn nhiều nơi, dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của các triều vua A-Du-Đà đất nước trở nên vững mạnh, đủ sức chống lại người
Miến. Bên cạnh đó người Xiêm cũng không ngừng mở rộng lãnh thổ của mình phía
Đông, còn Chúa Nguyễn thì chinh phục Thủy Chân Lạp tranh bá quyền trong khu vực,
vì vậy đã khó tránh khỏi cuộc đụng độ giữa hai quốc gia. Chân Lạp và Ai Lao đã
trở thành chiến trường tranh hùng giữa hai nước.
Vậy trong thế kỉ XVII- XVII, giữa Đàng Trong và Xiêm là mối quan hệ như
thế nào?. Và mối quan hệ này có tác động gì đối với các nước trong khu vực?.
Đây là một vấn đề được khá nhiều người quan tâm và tìm hiểu, trong đó có cả
chúng tôi. Vì vậy, đây là lý do mà chúng tôi chọn đề tài: “ Quan hệ Đàng Trong- Xiêm (thế kỉ XVII- XVIII)”.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu vấn
đề “ Quan hệ Đàng Trong- Xiêm (thế kỉ
XVII- XVIII)” là một đề tài rộng lớn và có nhiều tác giả đã từng nghiên cứu với những tác phẩm có liên
quan như sau:
“Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang ( NXB văn học). Tác
phẩm là một bản “lược đồ” vẽ lại đường đi của tiền nhân ta khoảng 400 năm trước
trong công cuộc khẩn hoang lập ấp ở miền đất mới.
“Lịch sử Đông Nam Á” của GS. Lương Ninh (chủ biên),
PGS.TS Đỗ Thanh Bình- PGS. TS Trần Thị Vinh (NXB Giáo Dục). Tác phẩm trình bài
một lịch sử Đông Nam Á, một hình thức lịch sử Đông Nam Á: trong đó, các sự kiện
lịch sử chủ yếu của tất cả các quốc gia, các vùng, được giới thiệu “cắt lát”
theo thời gian để thấy mối liên hệ ngang của nó trong khung “lát thời gian” khoảng
vài thế kỉ ở các thời kì xa xưa và vài thập kỉ ở thời gian gần đây, mong tìm thấy
những nét chung, nội dung đánh dấu mốc lịch sử nổi bật của các quốc gia trong
lát thời gian đó, cùng những mối liên hệ, tương đồng, thậm chí tương tác, tạo
nên lịch sử Vùng, lịch sử Khu vực.
“Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á- Asean” (trước công nguyên đến thế
kỉ XX). TS Nguyễn Văn Nam( biên soạn). (NXB Hà Nội). Tác phẩm cung cấp hệ thống
tri thức cơ bản về lịch sử của các nước Đông Nam Á. Các nước Đông Nam Á có
chung cội nguồn, chung một quá trình lịch sử, văn hóa, tộc người, chịu ảnh hưởng
của hai nền văn hóa Ấn Độ và Trung Quốc. Nhưng mỗi nước đều có sắc thái riêng
biệt, độc đáo. Tác phẩm còn cung cấp cho chúng ta những kiến thức để có cái
nhìn sâu sắc hơn về Asean, cùng nhau xây dưng một khu vực hòa bình, phát triển
và thịnh vượng, cũng là xu thế tất yếu của khu vực hóa và toàn cầu hóa hiện
nay.
“ Vua Quang Trung” của Lam Giang Nguyễn Quang Trứ. Tác
phẩm trình bày đầy đủ một giai đoạn lịch sử của dân tộc từ thế kỉ XII, “công
nghiệp mở nước của người Đại Việt” cho đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi 1802 lấy
niên hiệu là Gia Long. Qua giai đoạn này, chúng ta thấy được quá trình hình
thành và phát triển của phong trào Tây Sơn gắn liền với tên tuổi người anh hùng
áo vải Nguyễn Huệ. Và xoay quanh Nguyễn Huệ là nhân vật hoặc địch thủ làm nền
cho thiên tài Nguyễn Huệ trên tất cả các mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị,
ngoại giao và đặc biệt là cách “ chiêu hiền đãi sỹ”.
“Lịch sử khai phá vùng đất Nan
Bộ” của Huỳnh Lửa (Chủ biên). Tác Phẩm trình bày tiến trình nhân dân ta
khai khẩn và mở mang vùng đất này từ đầu thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XX, dân tộc
Việt Nam
Ta khai phá được đất Đồng Nai – Gia Định, tức đồng bằng sông Cửu Long và miền
đông nam bộ rất giàu tiềm năng nhưng cũng khó chinh phục, là do chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, truyền thống của nền nông nghiệp trồng lúa nước
của nước ta cho dù chế độ phong kiến kiềm hãm và áp bức, bóc lột hà khắc, làm hạng
chế tiến bộ khẩn hoang và sản xuất nông nghiệp.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề
tài là phải đi sâu tìm hiểu vấn đề “
Quan hệ Đàng Trong- Xiêm (thế kỉ XVII- XVIII)” để từ đó có cái nhìn sâu sắc
và toàn diện hơn về mối quan hệ giữa Đàng Trong và Xiêm trong các thế kỉ XVII-
XVIII.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục
tiêu trên cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Làm rõ quá
trình Nam
tiến của người Việt trong thế kỉ XVII- XVIII.
Tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội của Xiêm trong các thế kỉ XVII- XVIII.
Làm nổi bật được
mối quan hệ chính quyền Đàng Trong- Xiêm trong các thế kỉ XVII- XVII.
Qua đó, chúng
ta có thể đánh giá được tác động của mối quan hệ Đàng Trong- Xiêm trong các thế
kỉ XVII- XVIII.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng
nghiên cứu là: “ Quan hệ Đàng Trong-
Xiêm (thế kỉ XVII- XVIII)”.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian
và tư liệu nghiên cứu có giới hạn nên chúng tôi chỉ tìm hiểu và làm rõ: “ Quan hệ Đàng Trong- Xiêm (thế kỉ XVII-
XVIII)”.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đứng vững trên
lập trường quan điểm của giai cấp vô sản và vận dụng những nguyên lý, phương
pháp luận của chủ nghĩa Ma-Lenin các quan điểm của Đảng trong suốt quá trình
nghiên cứu.
Chúng tôi đã sử
dụng các phương pháp sau:
Phương pháp duy vật và biện chứng
Phương pháp lịch sử
Phương pháp logic
Phương pháp sưu tầm và sử lý tài liệu
Phương pháp đọc và ghi ché tài liệu
Ngoài ra,
chúng tôi còn sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá trong quá
trình nghiên cứu đề tài này.
6. Đóng góp đề tài
Về phía bản
thân: nhằm nâng cao trình độ tri thức và có cái nhìn sâu sắc về vấn đề “ Quan hệ Đàng Trong- Xiêm (thế kỉ XVII-
XVIII)”.
Về phía đóng
góp đề tài: tập hợp nhiều nguồn tài liệu để làm sáng tỏ vấn đề “ Quan hệ Đàng Trong- Xiêm (thế kỉ XVII-
XVIII)”. Và đề tài này thành công sẽ là nguồn tài liệu bổ sung kiến thức để
phục vụ cho việc học tập nghiên cứu lịch sử và công tác giảng dạy sau này.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở
bài, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục đề tài có cấu trúc nội dung
như sau:
Chương 1: Cơ sở mối quan hệ chính quyền Đàng Trong – Xiêm
trong các thế kỉ XVII- XVIII
Chương 2: Quan
hệ chính quyền Đàng Trong- Xiêm trong các thế kỉ XVII - XVIII
B .PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở mối quan hệ chính quyền Đàng Trong – Xiêm
trong các thế kỉ XVII- XVIII
1.1Quá trình Nam
tiến của người Việt trong thế kỉ XVII- XVIII
1.1.1Bối cảnh của quá trình Nam tiến
Đại Việt thế kỉ XIV là một thế kỉ của khởi nghĩa nông dân và nôị chiến. Từ
khi Uy Mục Đế lên làm vua, chính sự trong nước bắt đầu rối ren qua cái thời thịnh
trị của Lê Thánh Tông Hoàng Đế. Sau đó Giản Tu lên làm vua tức Tương Dực Hoàng
Đế, đất nước càng thêm rối ren, khởi nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi. Trong đó
có khởi nghĩa của Trần Cảo, có lúc ông đã chiếm được Đông Đô và cùng thời gian
này Chiêu Tông tuy chỉ 14 tuổi nhưng đã lên ngôi vua. Mạc Đăng Dung có công
trong dẹp giặc ngày càng lộng hành, vì vua còn quá nhỏ nên Mạc Đăng Dung nắm mọi
quyền sau đó cướp ngôi vào năm 1427.
Nguyễn Hoằng Dũ cũng là một công thần trong việc dẹp cuộc khởi nghĩa Trần
Cảo, sau khi Hoằng Dũ chết con của ông là Nguyễn Kim lên thay. Sau khi Mạc Đăng
Dung cướp ngôi nhà Lê, Nguyễn Kim cùng gia thuộc chạy sang Ai Lao. Nguyễn Kim tập
hợp quân mã phò vua Lê, lúc bấy giờ vua Trang Tông kế ngôi Chiêu Tông đã bị giết.
Sau ít lâu Nguyễn Kim chết binh quyền nằm hoàn toàn vào tay con rễ là Trịnh Kiểm,
để yên tâm nên Trịnh Kiểm quyết trừ khử Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng là 2 hai
người con trai của Nguyễn Kim. Sau khi bứt hại Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng rất lo
lắng và giả điên, đồng thời ông cho sứ giả hỏi Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Kiêm có
tiếng giỏi thuật số, Nguyễn Bỉnh Khiêm không đáp chỉ nhìn núi non bộ trước sân
rồi ngâm lớn: “ Hoành Sơn nhứt đái, vạn đại dung thân”( nghĩa là một giải núi
ngang, có thể dung thân muôn đời). Sứ giả về thuật lại, ông hiểu ý, Nguyễn Ư Dĩ
cùng bàn nên lánh mình ở phương xa vậy nên nhờ chị là bà Ngọc Bảo (vợ của Trịnh
Kiểm) nói với Trịnh Kiểm xin cho lãnh đất Thuận Hóa nơi hiểm cố để giữ mình, rồi
sau đó tính kế khác. Bà Ngọc Bảo xin cho em vào trấn thủ Thuận Hóa.
Thuận Hóa vừa được nhà Lê lấy lại trong tay nhà Mạc, đã đặt tam ty (Đô
Ty, Thừa Ty và Hiến Ty) và phủ, huyện để cai trị, nhưng nhà Mạc đương khấy động,
lòng dân chưa uy phục hẳn. Nhà Mạc cũng đương mưu đánh nhà Lê ở mặt Bắc lẫn mặt
Nam .
Tình trạng ấy khiến Trịnh Kiểm lo âu, nên ông chấp nhận thuận lời xin của vợ.
Đời vua Anh Tông, năm Mậu Ngọ, Chính Trị năm đầu (1558), tháng 10, Đoan
quận công Nguyễn Hoàng và đoàn tùy tùng đến cửa Việt vào sông Quảng Trị, đóng
dinh tại làng Ái Tử. Năm ấy ông 34 tuổi. Đoàn tùy tùng khá đông. Danh vọng của
cha, những đức tính của ông đã làm cho người đồng hương kính mến, nên hương
khúc huyện Tống Sơn và nghĩa dõng Thanh Hoa, Nghệ An cũng tình nguyện theo vào.
Nguyễn Hoàng lo xây dựng hành chính nơi đây, dần dần thay hết những quan chức của
họ Trịnh bằng người của mình, tiêu diệt hết giặc cướp và tàn dư của họ Mạc.
Khuyến khích nhân dân mở đất khai hoang, lập làng, mở chợ, thuế má nhẹ,.. nhân
dân phấn khởi, xứ Thuận Hóa ngày một xung túc. Để tạo lòng tin với vua Lê và
chúa Trịnh, vào năm 1592 ông đem quân ra Bắc giúp vua Lê đánh Mạc và ở đó đến 8
năm. Do ở lâu ngoài Bắc, khiến ông lo lắng, để bảo toàn cho tính mạng vào năm
1600 ông lén trốn về Nam đi
ngang cửa biển Đại An đã xúi giục Phạm Ngạn và Ngô Đình Ba nổi loạn tạo điều kiện
cho ông vào Nam
thuận lợi. Sau sự kiện nổi loạn cửa biển Đại An , Trịnh - Nguyễn đoạn tuyệt cục
diện Bắc Nam
chiến tranh vừa chấm dứt nay lại xuất hiện tranh hùng Đàng Trong và Đàng Ngoài.
1.1.2
Công cuộc mở rộng lãnh thổ về phương nam của các chúa Nguyễn
Thái tổ Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, sau kiêm lãnh xứ Quảng Nam,
mà đất cực Nam của Quảng Nam là huyệnTuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhân, tức là phủ
Tuy Phước, tỉnh Bình Định ngày nay. Bên kia đèo Cù Mông là nước chiêm Thành.
Năm Tân hợi (1611), Thái tổ sai chủ sự là Văn Phong đem quân vào đánh
Chiêm Thành, lấy đất bên kia đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi, đặt làm phủ Phú Yên,
gồm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, cho văn Phong làm Lưu thủ. Đó là bước Nam tiến
đầu tiên của các chúa Nguyễn.
Xem đó ta thấy rằng chúa Thái tổ đã nuôi chí mở rộng lãnh thổ để xây dựng
cơ nghiệp, mà mở rộng về ngã nào, nếu không phải là phía Nam, phía mà các triều
đại trước như Lý, Trần, Lê đã hướng về, và chính chúa đã tiếp bước năm Tân Hợi.
Năm Quý Tỵ (1653), đời chúa Thái Tông bước một bước nữa trên đường tiến
vào đất Chiêm Thành. Vua Chiêm là Bà Tấm xâm lấn Phú Yên, chúa sai Cai cơ Hùng
Lộc làm Thống binh, Xá sai Minh Võ làm Tham mưu, đem 3000 quân đi đánh. Quân vượt
đèo Hổ Dương núi Thạch Bi, đánh thẳng vào thành địch, lại ban đêm phóng hỏa đốt
trại địch, đại phá quân Chiêm. Bà Tấm bỏ chạy, quân ta chiếm đất trên sông Phan
Rang, Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân đem thư đến xin hàng, Hùng Lộc báo lên Chúa,
Chúa y cho, khiến lấy sông Phan Rang làm giới hạn, từ phía tây sông trở vào vẫn
để cho Chiêm Thành, Chiêm Thành phải giữ lệ cống, từ phía đông sông đến Phú Yên
ta lấy, đặt làm dinh Thái Khương ( Khánh Hòa ngày nay), chia làm hai phủ là
Thái Khương (Ninh Hòa ngày nay) và Diên Ninh (Diên Khánh ngày nay), sai Hùng Lộc
trấn giữ dinh Thái Khương.
Thời chúa Hiển Tông, năm Nhâm thân (1692) Vua Chiêm là Bà Tranh đem quân
đắp lũy, cướp giết nhân dân phủ Diên Ninh, dinh Bình Khương báo lên. Tháng 8,
Chúa sai Cai cơ Lê Tài hầu Nguyễn Hữu Kính ( con Nguyễn Hữu Dật) làm Thống
binh, Văn chức Nguyễn Đình Quang làm Tham mưu, đem quân Chánh dinh cùng quân Quảng
Nam và Bình Khương đi đánh. Tháng giêng năm sau, ( Quý dậu 1693), quân Việt
đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ chạy, đến tháng 3 thì bắt được Bà Tranh cùng
một Viên quan là Tả Trà Viên Kế Bá Tử và một người trong hoàng gia Chiêm là
Nàng Mi Bà Ân. Chúa Nguyễn bèn sáp nhập nước Chiêm vào bản đồ nước mình, đặt
làm một trấn, tên là Thuận Thành. Nhưng
người Chăm nổi loạn liên tục, Chúa Nguyễn chưa tiện đặt quan lại người Việt,
bèn phong Kế Bá Tử làm Phiên vương trấn Thuận Thành.
Tóm lại, từ năm Quý dậu (1693), chúa Nguyễn đã chiếm hết đất Chiêm Thành,
chỉ để lại cho họ một khoảnh đất Thuận Thành và một tước Phiên vương, cũng do
quân ta kiểm soát, để an ủi họ mà thôi. Nhưng rồi sau đó chẳng bao lâu, biến cố
dồn dập, Thuận Thành cũng xóa bỏ và Chiêm Thành bị xóa hẳn tên trên bản đồ.
Đầu Tây lịch kỉ nguyên, nước Phù Nam là một trong những quốc gia có tổ chức
mạnh vững ở Đông Nam Châu Á, kinh đô ở Vyadhapura, ở đông bắc Kampot, giáp tây
bắc Châu Đốc ngày nay. Lãnh thổ nước Phù Nam
gồm nước Cao Miên, cùng xứ Nam
bộ ngày nay, và có lẽ cả bán đảo Malacca nữa. Họ thuộc giống người Nam Đảo,
thâm nhiễm văn hóa Ấn Độ, theo Balamon giáo, dùng chữ viết pháp luật Ấn Độ,
quan niện vương quyền theo Ấn Độ. Nước Phù Nam có một đời sống kinh tế hoạt động,
ngoài canh nông, họ còn buôn bán với ngoại quốc, thuyền buôn các nước Ấn Độ,
Trung Quốc, Mã Lai và cả La Mã nữa đã tới lui Óc Eo, cửa biển chánh của nước ấy.
Thế kỉ thứ III Phù Nam
đã giao thiệp với Trung Quốc.
Sau khi vua là Rudravarman chết, thế kỉ thứ VI, thì các tiểu vương chư hầu
không thần phục nữa. Một tiểu vương, cháu Rudravarman, trị vì ở phía bắc Phù
Nam, tại miền Sambor là nước Kambuja (do đó có tên là Cam Bốt), Tàu và ta gọi
là Chân Lạp, ta còn gọi là Cao Miên, đem quân xuôi dòng sông Cửu Long (Mekong),
chiếm kinh đô Vyadhapura, lên ngôi vua, lấy hiệu là Bhava- Varman (550-600),
quyền uy ở lưu vực sông Cửu Long đã từ Phù Nam truyền sang vua Kambuja, tức vua
Chân Lạp. Năm 802, Jaya Varman 11 thống nhất Chân Lạp, thoát li Java và đặt nền
tảng cho đế quốc Khơme. Đến thế kỉ XIV xãy ra một cuộc cách mạng quan trọng về
chính trị và tông giáo đã để lại những hậu quả tai hại lớn lao về kinh tế. Chân
Lạp đi vào con đường suy vong, không sao ngăn cản được. Dưới triều Ta Chay và
con là Nippean Bat (1340-1346) Chân Lạp đã mất các thuộc địa ở Xiêm, ở Ai Lao
và các miền ở lưu vực thượng lưu sông Menam.
Từ thế kỉ XVII đã có nhiều người Việt Nam đến hai xứ Đồng Nai và Mỗi Xuy
của Chân Lạp, tức Biên Hòa, Bà Rịa ngày nay để vỡ đất làm ruộng. Vua Chân Lạp
Chey Chette 11 muốn tìm một đối lực để chống lại lân bang Xiêm hùng mạnh nguy
hiểm kia, đã xin cưới một công chúa Nguyễn làm hoàng hậu, trông mong được sự ủng
hộ của triều đình Thuận Hóa và chúa Hi tông, có mưu đồ xa xôi, năm 1620, đã gã
cho vua Chân Lạp một công chúa, Cuộc hôn nhân này có ảnh hưởng lớn lao đến vận
mạng Chân Lạp sau này. Bà hoàng hậu này đem nhiều người Việt đến, có người được
giữ chức hệ trọng trong triều, bà lại lập một xưởng thợ và nhiều nhà buôn bán gần
kinh đô.
Đến năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu được lập cơ sở
ở Prey Kor (Sài Gòn ngày nay), và được đặt ở đấy một sở thu thuế hàng hóa. Vua
Chey Chetta chấp thuận và triều đình Thuận Hóa khuyến khích người Việt di cư đến
đất ấy làm ăn, rồi lấy cớ để giúp chính quyền Miên gìn giữ trật tự, còn phái một
tướng lãnh đến đóng ở Prey Kor nữa. Khi Chey Chetta mất, vùng đất từ Prey Kor
trở ra Bắc đến biên giới Chiêm Thành, tức là Sài Gòn, Bà Rịa, Biên Hòa ngày nay
đã có nhiều người Việt đến ở và khai thác đất đai.
Năm sau (1659), Nặc Ông Chân chết, chúa Nguyễn phong So làm vua Chân Lạp,
lấy hiệu là Batom Reachea (1660-1672). Năm 1672, vua Batom Reachea bị Chey
Choetha III giết, em là Ang Tan chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Nhưng rồi Chey
Choettha cũng bị người phe của Chan do vợ Battom Reachea xui sử, giết. Ang Chei
(1673-1674) sử ta gọi là Nặc Ông Đài, con đầu của Battom Reachea lên ngôi. Nặc
Ông Đài đắp lũy ở thành Nam Vang, làm bè nổi, dừng xích sắt chận các cửa sông rồi
tiến xuống chiếm Sài Côn, có binh Xiêm đến cứu viện. Ông đài đắp một lũy đất ở
địa đầu Mỗi Xuy, ngoài trồng tre gai, trong đặt quân đội phòng thủ, thế rất
kiên cố. Trãi qua một năm, không thấy chúa Nguyễn phản ứng gì, quân của Ông Đài
giãi đãi việc phòng thủ, tan ra đi làm ruộng rẫy. Đầu năm Giáp dần (1674), chúa
Thái tông sai Cai cơ đạo Nha Trang thuộc dinh Thái Khương là Nguyễn Dương Lâm
làm Thống binh, Tướng thần lại Thủ hợp là Nguyễn Diên Phái làm Tham mưu, Văn
Sùng làm Thị chiến, đem quân đi đánh. Em Ông Đài là Ang Saur sử ta gọi là Nặc
Thu, đuổi quân đội Việt Nam, Nặc Nộn chạy sang Sài Côn, Nặc Thu lên làm vua, lấy
hiệu là Chey Choetha IV, được chúa Nguyễn phong vương và Nặc Nộn có lẽ được
phong Obareach mà sử ta gọi là đệ nhị vương.
Năm Kỉ mùi (1679), một tập đoàn di dân lớn người Trung Quốc đến khai thác
đất Thủy Chân lạp để rồi sau trao cho chúa Nguyễn. Tháng giêng năm ấy, dư đảng của họ Trịnh ở Đài Loan
là Tổng binh Long Môn Ngọ Ngạn Địch Phó Tướng Hoàng Tiến và Tổng binh Cao Lôi
Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An Bình, đem binh lính và quyến thuộc
hơn 3000 người và hơn 50 chiếc thuyền, chạy vào đậu dọc theo bờ biển từ cửa Eo
đến cửa Đà Nẵng.
Ở Mỹ Tho bọn Dương Ngạn Địch cũng lập Mỹ Tho đại phố, tàu thuyền tới lui
buôn bán đông đúc, lại nhóm hợp người Tàu, người Miên, người Việt, vỡ đất làm
ruộng, chia lập trang trại, thôn ấp.
Có viên quan Chân Lạp là Êm nổi loạn, nhờ chúa Nguyễn giúp quân lính và
đã hứa là sẽ nhường các tỉnh Prey Kor (Sài Gòn), Kampeap Srekatrey (Biên Hòa),
Bà Rịa để đền đáp. Năm 1699, Êm đem quân Việt theo sông Mê Kong tiến lên đến
Kompong Chnang, nhưng bị đẩy lùi, trở về 3 tỉnh này, Êm bị giết. Nhưng nhân đó,
chúa Hiển Tông đã công khai chiếm đất ấy, đặt quan cai trị.
Năm Mậu dần (1698) Chúa sai thống suất Nguyễn Hữu Kính vào kinh lược,
chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai đặt huyện Phước Long lập dinh Trấn Biên(
Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Côn đặt huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn( Gia
Định ngày nay). Đặt phủ Gia Định để thống thuộc hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn.
Với phủ Gia Định, bấy giờ chúa Nguyễn đã có đất nghìn dặm, 4 vạn hộ dân. Chúa
sai chiêu mộ thêm lưu dân từ Bố Chính trở vào Nam đến ở, thiết lập xã, thôn,
phường, chia ranh giới, khai khẩn ruộng đất, đánh thuế tô, thuế dung, làm bộ
đinh, bộ điền. Người Tàu cũng khá đông rồi, bèn lập làng xã cho họ và bắt đầu
chính sách đồng hóa.
Đất Mỹ Tho hình như bấy giờ chưa trực tiếp thuộc quyền phủ Gia Định mà do
các tướng Long Môn kiểm soát một cách lỏng lẻo. Người dân được tự do làm ăn, muốn
ở đâu thì ở, muốn khai khẩn đất chỗ nào tùy ý. Có những người định cư ở những
nơi xa xôi như trên núi để khai thác lâm sản, trên bờ biển để đánh cá, hạng người
ấy thì không thuộc chính quyền nào cả.
Từ khi Dương Ngạn Địch đến Mỹ Tho, Nguyễn Hữu Kính lập Phủ Gia Định, thì
tỉnh Gia Định, tỉnh Biên Hòa ngày nay đã công nhiên thuộc vào bản đồ Nam Hà,
còn trên đất Mỹ Tho, Chúa đã cho đặt được một thứ bán chính quyền. Như vậy, uy
lực của chúa Nguyễn đã đến sông Tiền Giang, còn bên kia sông Tiền Giang vẫn thuộc
đất của Chân Lạp. Một người Trung Hoa khác sẽ đem dâng Chúa một giải đất ở tận
trên bờ biển ở vịnh Tiêm La để Chúa dùng làm bàn đạp và từ đấy tiến trở lên
phía bắc, nối liền với Tiền Giang.
Mạc Cửu quê ở phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, nguyên là một chủ thuyền
buôn, rất hoạt động, thường sang buôn bán ở Phi Luật Tân, có lẽ đã cộng tác mật
thiết với họ Trịnh ở Đài Loan trong việc khuếch trương mậu dịch Đài Loan ở Hải
Ngoại. Sau khi thấy nhà Minh không thể phục hưng được, ông không chịu cạo tóc,
gióc bím theo nhà Thanh, chạy sang cư ngụ ở đất Chân Lạp, làm quan với Chân Lạp.
Thấy chính cuộc nước này rối ren mà ở đất Màng Khảm, thuộc tỉnh Ream của Miên
có nhiều người buôn bán ngoại quốc tụ họp, ông đến ở đấy, mở sòng bạc để lấy xâu, lại đào được một hầm bạc chôn,
nên trở thành giàu có. Mạc Cửu bèn xây một ngôi thành trên bờ biển, mở phố xá rồi
chiêu tập lưu dân đến ở các nơi Phú Quốc, Cần Bột( Campot), Rạch Giá, Luống
Cày, Hương Úc, Cà Mau, lập thành 7 xã thôn. Tương truyền đất Màng Khảm có người
Tiên thường hiện trên sông, nên đặt tên là Hà Tiên. Nhưng vào khoảng 1687- 1688
quân Xiêm vào cướp phá Hà Tiên, đưa Mạc Cửu về Xiêm, cho ở hải cảng Vạn Tuế
Sơn. Sau một thời gian, ông lén trở vê Long Kì rồi vào khoảng năm 1700 trở về
Hà Tiên.
Từ năm 1698, chúa Nguyễn đã lập phủ Gia Định, địa vị của người Việt trên
đật Thủy Chân Lạp đã vững chãi, thế lực đương có cơ phát triển, còn ở Chân Lạp
thì nội loạn tiếp tục, người Xiêm luôn luôn can thiệp và chờ cơ hội để xâm lấn.
Vì tình hình ấy và muốn duy trì địa vị mình,
nên Mạc Cửu theo lời khuyên của mưu sĩ họ Tô, năm Mậu Tí(1708), cùng bộ
thuộc là bọn Trương Cầu, Lý Xá, đem ngọc, lụa đến Thuận Hóa dâng biểu xưng thần,
xin cho làm Hà Tiên trưởng. Chúa Hiển Tông thấy Mạc Cửu tướng mạo khôi kiệt, tiến
thối cung kính, cẩn thận, nên bằng lòng cho làm thuộc quốc, trao cho chức Tổng
binh và ấn thu để giữ trấn Hà Tiên, khi Cửu về, chúa sai Nội thần tiễn đưa đến
ngoài cửa đô thành. Như vậy, Hà Tiên trở thành gần như đất chư hầu của chúa
Nguyễn, Mạc Cửu bèn xây dựng dinh ngũ, nhân dân đến ngày càng thêm đông. Năm
Tân Mão(1711) ông lại đến Thuận Hóa yết Chúa để tạ ân.
Thời chúa Túc tông, năm Tân hợi (1731), có người Ai Lao di cư ở Chân Lạp
tên là Sá Tốt, nói mình được số tiền định để đánh đuổi người Việt ở trên đất
Chân Lạp, nhiều người Chân Lạp tin theo. Sá Tốt khởi binh cùng nhiều người Chân
Lạp giết người Việt ở Cầu Nam( Ba Nam) rồi xuống cướp Gia Định, Chúa Túc tông lấy
cớ tái lập an ninh, sai Thống suất Trương Phước Vĩnh điều khiển binh các đạo đi
đánh. Bấy giờ các dinh ở Gia Định đều có Thủ tướng, Chúa thấy rằng việc quân ở
nơi biên khổn cần phải có một cơ quan thống suất, nên đặt chức Điều khiển, sai
Trương Phước Vĩnh giữ chức ấy, quan binh các dinh, trấn đều thuộc về, lại đặt
nha như ở phía Nam dinh Phiên Trấn, gọi là dinh Điều khiển.
Trương Phước Vĩnh huy động cấp tốc Cai cơ Đạt Thành ra chống giặt ở Bến Lức
(Lật Giang), cô quân không có cứu viện, Đạt Thành bị giết chết.
Thống binh Trần Đại Định (con Trần Thượng Xuyên, được thay cha giữ chức
Thống binh để thống lĩnh tướng sĩ Long Môn) suất lãnh thuộc tướng Long Môn đón
đánh giặc tại Vườn Trầu (Phù Viên), phá tiền quân của giặc, Đại địch đắp lũy
Hoa Phong để ngăn giặc. Trương Phước Vĩnh sai Giám quân Cai đội Nguyễn Cữu
Triêm đem quân cứu ứng Bến Lức, giặc bị đánh bại rút lui về Vũng Gù, Phước Vĩnh
chia quân đi ba đường cùng một lúc tiến phát, quân Lào tan chạy, núp trốn vào rừng
sâu.
Sau cuộc dụng binh đánh Sá Tốt và thành công này, chúa Túc Tông buộc Nặc
Tha chánh thức nhường hai tỉnh Me Sa và Long Hor (tức đất Mỹ Tho và Vĩnh Long),
hai tỉnh này tuy người Việt đã chiếm rồi, nhưng trên pháp lý vẫn còn là của
Chân Lạp. Trên đất Long Hồ, chúa đặt châu Định Viễn và lập dinh Long Hồ, cho
châu Định Viễn thuộc vào, còn Mỹ Tho thì vẫn để như tình trạng cũ, sau này, năm
1772, mới đặt chính quyền chính thức.
Năm Đinh Sửu (1775), Vua Chân Lạp là Nặc Nguyên mất, người chú họ là Nặc
Nhuận quyền coi việc nước, các quan Gia Định xin lập Nặc Nhuận làm vua để tỏ ân
nghĩa và giữ nguyên biên cương, chúa Thế Tông buộc phải hiến hai phủ Trà Vinh
và Ba Thắc mới lập. Vừa lúc ấy con rễ của Nặc Nhuận là Nặc Hinh giết Nặc Nhuận
để cướp ngôi, con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên. Thống suất Trương Phước
Du thừa diệp tiến đánh, Nặc Hinh chạy đến Tầm Phong Xuy, bị viên quan Ốc Nha
Uông giết chết. Bấy giờ Mạc Thiên Tứ cũng bẫm xin hộ cho Nặc Tôn, chúa Nguyễn
bèn sắc phong Nặc Tôn làm vua Cao Miên, sai Thiên Tứ cùng quân sĩ 5 dinh hộ tống
về nước, Nặc Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long ( tỉnhg An Giang sau này) và hai
quận Tầm Độn, Xuy Lạp ( thuộc tỉnh Vĩnh Long sau này).
Những cuộc tranh giành trong cung đình đạt đến một cảnh tượng ghê tởm
chưa từng thấy. Cháu nội của Ang Tong, hoàng thân Preah Outey bắt giết Ang Hing
và em là Ang Duong đã đi tu, giết luôn người quả phụ và người con đầu của Ang
Hing. Còn người Việt thì khấy động trong các miền Nam Cao Miên, ở giữa nhánh
tây sông Mekong, Hà Tiên và núi Bắc Lim, gián điệp của họ khích thích các tỉnh
Treang, Benteay Meas, Bati, Preykrabas nổi dậy. Vua Ang Tong bị bức bách phỉa
nhường đất Phsar Đek ( tức Sa Đéc sau đó), 2 quận của tỉnh Long Hor và tỉnh
Meat Chrouk ( tức Châu Đốc sau đó). Nguy hơn nữa, hoàng thân Preah Outey nổi
lên chống đối vua phải bỏ Oudong, trốn đến Pursat, vừa đến đây thì buồn mà chết,
Outey II lên ngôi (1758- 1775) thần phục chúa Nguyễn và để tạ ơn, cắt nhường
hai tỉnh Srok Trang (tức Sóc Trăng sau đó) và Preah Trapeang ( tức Trà Vinh sau
đó). Toàn cõi Nam Kì ngày nay thuộc Chúa Nguyễn.
Trương Phước Du, Nguyễn Cư Trinh dời dinh Long Hồ đế xứ Tầm Bao( thuộc
thôn Long Hồ, tỉnh lụy Vĩnh Long), lại đặt đạo Đông Khẩu ở Sa Đéc đạo Tân Châu ở
Tiền Giang, đạo Châu Đốc ở Hậu Giang, Châu Đốc là địa điểm quan trọng về việc
phòng ngự vì ở gần biên giới Chân Lạp, nên lấy thêm quân của dinh Long Hồ đóng
giữ. Nặc Tôn lại cắt thêm 5 phủ Cần Bột ( Kampot), Vũng Thơm( Hương Úc, Kompong
Som), Chân Rùm( Nam bộ tỉnh Treang), Sài Mạt( Bentey Meas), Linh Quỳnh để tạ ơn
Mạc Thiên Tứ, Thiên Tứ đem dâng chúa Nguyễn, chúa cho 5 phủ đó thuộc trấn Hà
Tiên quản hạt. Thiên Tứ lại xin lập đạo Kiên Giang ở Rạch Giá, đạo Long Xuyên ở
Cà Mau, đều đặt quan lại, rội chiêu tập dân đến ở, lập thành thôn, ấp. Từ đó, địa
vực từ Hậu giang sông Cửu Long ra đến biển phía đông và phía tây đều thuộc Chúa
Nguyễn.
1.1.3 Sự hình thành bộ máy chính quyền Đàng Trong
Khi mới vào Thuận Hóa, Thát tổ Nguyễn Hoàng đóng ở Ái Tử, chỗ gọi là
dinh, các cơ quan trung ương chính quyền của xứ Thuận Hóa đều ở đó. Sau khi được
kiêm lãnh xứ Quảng Nam (
1570), Chúa đặt dinh Quảng Nam .
Đến đời chúa Hi tông thì đặt thêm dinh Quảng Bình, dinh Trấn Biên( Phú Biên,
1629), dinh Bố Chính (1630). Khu vực mà chúa đóng dinh ( từ đời chúa Hi tông gọi
là phủ) gọi là Chánh dinh. Dinh hoặc phủ chúa dời từ Ái Tử đến Trà Bát (1570),
đến phía đông dinh Ái Tử cũ (1600, gọi là dinh Cát), đến Phước Yên (1626), đến
Kim Long (1635), đến Phú Xuân (1687), đến Bác Vọng (1712), rồi trở lại Phú Xuân
(1739), và sau khi rời bỏ Ái Tử thì khu vực ấy gọi là Cựu dinh. Sau chúa Hi
tông các chúa lần lượt, theo kết quả sử mở rộng lãnh thổ phía Nam và nhu cầu
chiến tranh phía Bắc (chỉ ở đất Quảng Bình ngày nay, thời ấy có 3 dinh), thiết
lập các dinh khác. Đến chúa Thế tông, lãnh thổ chia làm 12 dinh và 1 trấn. Dinh
có Trấn thủ, Cai bộ, Ký lục để cai trị, trấn Hà tiên có chức Đô đốc trấn giữ. Hai
phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam, thì đặt riêng chức Trần Vũ và chức
Kháng lý để cai trị.
Dinh chia ra nhiều phủ, phủ gồm nhiều huyện, huyện gồm nhiều tổng, tổng gồm
nhiều xã, các nơi gần núi rừng, dọc sông, biển thì đặt làm Thuộc, cho các phường,
thôn, Nậu Man lẻ tẻ thuộc vào.
Thời chúa Thái tổ vẫn giữ các cơ quan hành chánh do triều Lê đặt ra. Chúa
Hi tông lên ngôi, liền bỏ các cơ quan ấy mà đặt ba ty là ty Xá sai, ty Tướng thần
lại và ty Lệnh sử. Ở Chánh dinh có ty Xá coi sai việc văn án từ tụng, có Đô tri
và Ký lục đứng đầu, và 3 Câu kê, 7 Cai hợp, 40 Ti lại giúp việc, ti Tướng thần
lại có Cai bộ đứng đầu, coi việc thu tiền sai dư và lúa tô ruộng các xã Thuận
Hóa, phát lương tháng cho các dinh đạo Lưu Đồn, dinh thủy và bộ Quảng Bình,
dinh Bố Chính, phát tiền cho các quân cùng cấp lính các xã, số nhân viên cũng
như ty Xá sai, ty Lệnh sử, có Nha úy đứng đầu, coi việc tế tự, lễ tiết, phát
lương tháng cho quân ở Chánh dinh và coi các quan điền, số nhân viên cũng như
hai ty kia.
Ngoài ra, còn có ty Nội lệnh sử kiêm coi các thứ thuế, ty này gồm 2 ty Tả
lệnh sử, Hữu lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư của các xã hai xứ để nạp cho Nội
phủ. Lại có ty Lệnh sử đồ gia (Nhà đồ) để thu cất các đồ đạt, phẩm vật. Chúa thần
tông, năm Mậu Dần (1638) bắt đầu đặt các chức Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại
hữu, gọi là tứ trụ đại thần, là những chức cao nhất trong triều. Các dinh ở
ngoài, có dinh chỉ đặt một ty Lệnh sử, có dinh đặt 2 ty Xá sai và tướng Thần lại,
lại có dinh đặt 2 ty Xá sai và Lệnh sử để coi việc từ tụng của quân, dân, sổ
sách đinh, điền và trưng thu thuế ruộng sở tại, số nhân viên thì tùy theo công
việc nhiều ít mà thêm, bớt.
Phủ có tri phủ, huyện có tri huyện đứng đầu, giữ việc từ tụng, thuộc viên
có Đề lại coi các văn án từ tụng, Thông lại để sai tra xét các từ tụng, Huấn đạo,
Lễ sinh coi việc tế tự miếu văn thánh và các linh từ. Xã có xã trưởng.
Còn việc thu thuế ở các phủ, huyện, châu, thì ban đầu có chánh, phó Đề đốc,
chánh, phó Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Cai tri, Ký phủ, Thư ký, Cai tổng, Lục lại
chuyên lo. Chúa Túc tông giảm bớt nhân viên và thay đổi như sau: xứ Thuận Hóa mỗi
phủ đặt 1 Đề đốc, 1 Đề lãnh, 1 Ký lục, 1
Cai phủ, 1 Thư ký, mỗi huyện đặt 3 Cai tri, 3 Thư ký, 4 Lục lại, mỗi Tổng đặt 3
Cai tổng, duy Tổng Bái Ân chỉ có 1 Cai tổng. Xứ Quảng Nam, mỗi phủ đặt một
Chánh hộ Khám lý, 1 Đề đốc, 1 Đề lãnh, 1 Ký lục, 1 Cai phủ, 1 Thư ký, mỗi huyện
một Cai tri, 1 Thư ký, 2 Lục lại, mỗi Tổng một Cai tổng, Thuộc có Ký thuộc. Ở
Thuận Hóa cũng như ở Quảng Nam ,
ở các xã có đặt chức Tướng thần để cùng Xã trưởng thu thúc phú dịch. Các quan
chức và nhân viên coi việc thu thuế không thuộc quan địa phương mà thuộc quyền
Nội phủ.
Đời chúa Túc tông, năm Bính Ngọ (1726), sai Ký lục Chánh dinh Nguyễn Đăng
Đệ đi tuần xét các phủ xứ Quảng Nam, định chức, lệ cho các thuộc mới lập. Bấy
giờ phủ Thăng Hoa có 15 thuộc, phủ Điện Bàn 4 thuộc, phủ Qui Nhơn 13 thuộc, phủ
Phú Yên 38 thuộc, phủ Bình Khương 20 thuộc, phủ Diên Ninh 14 thuộc, phủ Bình
Thuận 20 thuộc, định lệ, thuộc 500 người trở lên thì đặt 1 Cai thuộc, 1 Ký thuộc,
450 người trở xuống thì đặt 1 Ký thuộc, 100 người trở xuống thì đặt một Tướng
thần.
Ngạch hoạn quan (thái giám) cũng đã đặt ra. Thường thường họ giữ sổ sách
thuế khóa, thu thuế, canh phòng nội cung và quản trị việc chi tiêu trong cung cấm.
Chúa Thế tông xưng vương hiệu (1744) tổ chức lại các cơ cấu chính quyền. Ở
chánh dinh, ty Xá sai chia làm 2, chức Đô tri và thuộc viên đổi làm bộ Hình, chức
Ký lục và thuộc viên đổi làm bộ Lại, chức Cai bộ phó đoán sự và thuộc viên ở ty
Tướng thần lại đổi làm bộ Hộ, chức Nha úy và thuộc viên ở ty Lệnh sử đổi làm bộ
Lễ, đặt thêm hai bộ Binh và Công. Trước kia đã có chức Văn chức, lựa người có
văn học xung vào, nay lấy những Văn chức đặt làm Hàn lâm viện.
Các quan viên không có thường bổng, chỉ được cấp ruộng ngụ lộc hoặc điền
lộc, dân lộc nhiêu phu làm ngụ lộc. Các Phủ, Huyện xử kiện tụng, bắt bớ, tra hỏi
được thu lễ của các đương sự cung đốn cho, các quan chức thu thuế được thu một
món lúa, tiền của người nạp thuế nạp thêm.
1.2 Nước Xiêm trong các thế kỉ XVII- XVIII
1.2.1 Tình hình chính trị - xã hội
Thế kỉ XVII- XVIII, nước Xiêm vẫn không ổn định. Cuộc chiến tranh với Miến
Điện vẫn tiếp diễn, nội bộ nước Xiêm rối loạn và phân quyền. Vệc can thiệp vào
Campuchia vẫn được duy trì. Vua ( Trương
Quốc Anh), đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất nước Xiêm. Tiếp theo
là vua Chakri – Rama I khởi đầu của Hoàng gia Thái Lan ch đến ngày nay.
Từ năm 1688- 1703, tình trạng đất nước hỗn loạn liên miên. Năm 1690, một
người mạo danh là em vua Nara ,
đã huy động dân một số huyện đến đánh kinh đô Ayuthaya nhưng bất thành. Hai người
tỉnh trưởng khác cũng nổi dậy ở Korat và Nakhon. Cuối năm 1692, hai cuộc nỗi loạn
này đã bị dập tắt. Năm 1699, Korat lại nổi dây lần nữa, do một người pháp thuật
lãnh đạo, có những pháp thuật kinh ngạc. Sau một thời gian hoạt động, ông đã di
chuyển về Lopburi cùng với 3000 quân. Khi bị quân đội bao vây, thuộc hạ đã bắt
nộp lãnh tụ của họ và phong trào sụp đổ.
Năm 171, Xiêm phái một đội quân qua Campuchia để phục hồi ngôi báo, nhưng
bị quân Keofa có sự giúp đở của chúa Nguyễn đánh bại. Năm 1717, Xiêm lại đưa một
đội quân lớn hơn đánh vào Udong, nhưng cũng bị thất bại nặng nề.
Khi vua Taisra chết năm 1733, triều đình lại tranh giành ngôi báu. Kết cục
em vua đã thắng và lên ngôi lấy vương hiệu là Maha Tammaraja II hay gọi là
Boromokot. Đức vua đã cai trị đất nước một cách bình yên, được xem là thời kỳ
hoàng kim.
Vua Boromkot còn là người bảo trợ lớn cho Phật giáo. Năm 1753, vua Xây
Lan nhờ ông cử một phái đoàn Phật giáo sang làm trong sạch đạo Phật Sinhali.
Vua đã nhận lời và cử 15 nhà sư sang Xây Lan, họ đã lập nên phái Phật giáo
Suyam Wong lớn nhất ở Xây Lan.
Trước khi mất 1768, vua đưa con thứ hai lên thay con cả. Tuy vậy ông vẫn
cảm thấy khó xử nên ông bỏ đi tu.
Sau khi giành lại độc lập từ Miến Điện vào năm 1867. Vua Taksin được đăng
quang ở BangKok .
Tuy nhiên Xiêm lúc này đang trong tình trạng cát cứ. Ở bán đảo Malai có tỉnh
trưởng Nakho tuyên bố độc lập. Ở tỉnh Korat có con trai vua Boromokot chiếm giữ
có tham vọng làm đế vương. Còn ở tận cùng phía bắc có một nhà sư Phật giáo đã
thành lập một quốc gia thần quyền gọi là vương quốc Fang.
Taksin có nhiều việc phải làm thống nhất đất nước. Quân Miến Điện vẫn còn
ở Chiengmai và còn đối phó với vua sư ở Fang. Taksin quyết định đánh vào
Chiengmai nhưng lại thất bại. Cuộc chinh phạt đã nhanh chóng triệt hạ được
vương quốc Fang. Vua Sư đã chạy lên phía Bắc và không nghe nói đến nữa.
Sau khi đánh đuổi được quân Miến Điện, Taksin bị căng thẳng, rối loạn thần
kinh trở nên tàn ác. Chakri trở thành người lãnh đạo chính của Hoàng cung.
Chakri đã thể hiện vai trò minh chủ của mình đối với Vienchan và cả
Luangprabang. Năm 1781, ông lại tiến qua Campuchia lật lại ngôi vua cho một
hoàng tử ở Bangkok mà trước đây Việt Nam đã đưa con
của Angtong lên ngôi. Chakri chưa thực hiện xong nhiệm vụ thì ở trong nước có
cuộc nổi loạn đòi giết vua thần kinh và chiếm ngôi. Chakri về Bangkok thì cuộc nổi loạn đã bị dập tắt.
Chakri được nhân dân hoan hô và yêu cầu lên làm vua. Một khó khăn là vua điên vẫn
còn và mới 48 tuổi. Nhưng rồi, sau việc thanh trừng quân nổi loạn, Taksin cũng
bị thủ tiêu và Chakri được lên ngôi với vương hiệu là Rama I và đất nước dần dần
ổn định.
1.2.2 Tình hình kinh tế
Người Xiêm chưa bao giờ thiếu nguồn cung cấp lương thực dồi dào. Nông dân
trồng lúa để tiêu thụ và trả thuế. Phần dư được dùng cho các mục đích tôn giáo.
Từ thế kỉ XIII- XV, một sự chuyển đổi mạnh mẻ đã diễn ra trong lĩnh vực trồng
lúa ở Xiêm. Ở cao nguyên, nước được cung cấp cho ruộng lúa bằng hệ thống thủy lợi.
Ở các vùng thấp như, Chao Phraya, nông
dân đã tạo ra những ruộng nỗi tên mặt nước, có thể nỗi theo mực nước, môt kĩ
thuật được du nhập từ Bengal . Nguồn lương thực
dồi dào với giá rẽ đã khiến Ayuthaya
thành một trung tâm của các hoạt đông kinh tế.
Bên cạnh nông nghiệp, thương nghiệp cũng được chú trọng phát triển, cảng
Băng Cốc tấp nập ghe thuyền của các nước Châu Á qua lại như: Chân Lạp, Nhật Bản,
Trung Hoa và Đàng Trong, Đàng Ngoài,.. Đặc biệt, có sự xuát hiên của các tàu
buôn đến từ phương Tây như: Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp,..
1.3 Mối quan hệ giữa nhà nước phong kiến Đại Việt với Xiêm
trước thế kỉ XVII
Trước thế kỉ
XVII, quan hệ giữ Đại Việt và Xiêm rất mờ mịt, rất ít sử liệu ghi chép về mối
quan hệ này. Quan hệ giữa Đại Việt và Xiêm thật sự bắt đầu từ thế kỉ XIII. Nước
Xiêm ở giai đoạn này hoàn toàn không thống nhât có nhiều tiểu quốc của người
Thái được thành lập ở phía Bắc như: Lana, Nan ;
miền Trung có Sukhothay, Aythaya. Ngoài ra, còn có nhiều tiểu quốc người Môn cổ
và một số tiểu quốc người Mã Lai nằm ở phía Nam ( bán đảo Malacca). Giai đoạn đầu
mối quan hệ này chủ yếu là trao đổi thư từ giữa Đại Việt và các tiểu quốc Thái
như Sukhothay va Lavô với mục đích mừng chiến thắng của nhà Trần trước Mông Cổ.
Ngoài ra còn có sự buôn bán giữa các nước.
Đến thế kỉ XV,
cụ thể là triều đại Lê Sơ dưới sự trị vì của Lê Thánh Tông Hoàng Đế, Đại Việt
trở nên hùng mạnh, mối quan hệ giữa hai nước lúc này rất phức tạp, chòng chéo dẫn
đến chiến tranh ngoài ý muốn với các quốc gia người Thái. Sự kiện xãy ra năm
1466, khi đó Bồn Man là thuộc quốc của Đại Việt từ thời của Lê Nhân Tông Hoàng
Đế, Bồn Man được sự giúp đỡ của LanXang đã quay giáo chóng lại Đại Việt do Cầm
Công cầm đầu. Năm 1467, Thánh Tông Hoàng Đế quyết dùng binh lực tiêu diệt Bồn
Man và LanXang với quân đội hùng hậu khoảng 30 vạn quân đã tràn sang lãnh thổ Bồn
Man và LanXang , LanXang chống không nỗi phải tháo chạy về phía tây. Quân đội Đại
Việt tiếp tục truy kích .
Sự đụng độ giữa
Đại Việt và các tiểu vương quốc người Thái là điều không thể tránh khỏi , các
tiểu quốc Bắc Thái như: Lanna và Nan bị chiếm và một phần lãnh thổ của
Sukhothay ở miền Trung Thái Lan ngày nay nữa, đã buộc Ayuthaya và Sukhothay,
Lanna, Nan phải triều cống. quân đội Đại Việt không dừng lại ở đó mà tràn sang
Miến Điện đến sông Iraoadi, buộc tiểu quốc Ava phải xưng thần. Cuộc tây chinh của
Thánh Tông Hoàng Đế đã buộc các quốc gia bắc bán đảo Trung Ấn nhảy vào cuộc chiến.
Sau khi sáp nhập Bồn Man vào lãnh thổ Đại Việt, hầu như các quốc gia trên bán đảo
Trung Ấn phải triều cống cho Đại Việt. Khi đạt được mục đích năm 1480 quân đội
Đại Việt rút về. Sau cuộc tây chinh của Đại Việt , các quốc gia người Thái đoàn
kết với LanXang để chống lại Đại Việt. Cuộc chiến này đã làm cho các quốc gia
Lanxang, Lanna, Nan , Bồn Man bị tàn phá nặng nề.
Thế kỉ XVI, là
thế kỉ yên bình trong mối quan hệ giữa Đại
Việt và các quốc gia người Thái chủ yếu là quan hệ buôn bán. Ayuthaya là đối
tác buôn bán chính trong các quốc gia người Thái mà đường biển là chính.
Chương 2: Quan hệ chính quyền Đàng Trong- Xiêm trong các thế
kỉ XVII - XVIII
2.1 Yếu tố tác động đến mối quan hệ chính quyền Đàng Trong-
Xiêm
2.1.1 Bối cảnh khu vực
Đông Nam Á là một khu vực chia làm hai phần rõ rệt. Phần lục địa gọi là
bán đảo Trung- Ấn. Phần còn lại là hải đảo theo cách gọi của người Trung Hoa gọi
là Nam Dương.
Đông Nam Á lục địa thế kỉ XVII- XVIII là khu vực các cứ với rất nhiều quốc
gia thường xuyên xung đột tranh giành quốc gia và tranh giành ảnh hưởng lẫn
nhau. Nhưng suy cho cùng chỉ là sân chơi của Đại Việt, Xiêm và Miến Điện bản
thân những quốc gia lớn này cũng hoàn toàn chưa thống nhất. Những quốc gia nhỏ
hơn như Lanna, Ai Lao, Chân Lạp,..trở thành miến mồi ngon, đây là nguyên nhân
chính dẫn đến sự đụng độ giữa Đàng Trong- Xiêm và giữa Xiêm- Miến Điện.
Việc lên ngôi
của vua 6 – Narasuen (1590-1605) mở đầu một giai đoạn phục hưng của Ayuthaya
sau một thời gian bị Mianma thống trị (1569-1590). Ayuthaya trở lại tấn công
Mianma gây cho nước này nhiều tổn thất, sau khi đã hạ được thành Lovek, đánh bại
lực lượng đề kháng của Campuchia và bắt Campuchia thần phục (1595). Tuy nhiên,
thế kỉ XVII và gần hết thế kỉ XVIII, tình hình xã hội chính trị của Ayuthaya đã
có những biến động rõ rệt. Sự phân hóa xã hội đã diễn ra sâu sắc. Việc đồng hóa
và tiểu giảm thành phần tộc người Môn, sự bần cùng hóa nhân dân và sự lũng đoạn
của người Hoa đã làm cho những mâu thuẫn xã hội thêm gay gắt. Tình hình đó đã
phản ánh vào đời sống chính trị, gây nên tình trạng không ổn định với những vụ
xung đột, mưu sát, cướp ngôi, thường xãy ra trong nội bộ hoàng tộc.
Nhân cơ hội đó, Mianma lại đem quân đánh Ayuthaya. Mianma lúc này đã được
khôi phục và thống nhất dưới triều vua Alaugpaya trở thành một quốc gia hùng mạnh.
Quân Mianma cho bao vây kinh đô Ayuthaya từ tháng 2/1766 đến tháng 4/1767 thì
phá được thành. Họ đã đốt phá hầu như hủy diệt kinh đô của người Thái, mà chỉ
giữ lại cái gì đó có thể mang về làm chiến lợi phẩm, hàng vạn ngôi nhà và cung
điện bị đốt. Vua và số đông hoàng tộc bị chết. Cuộc tàn sát đã gây đau thương
và căm hờn trong dân Thái. Một viên quan người gốc Hoa tên là Trịnh Quốc Anh đã
dẫn 500 quân phá vây chạy thoát ra ngoài. Với tinh thần thực tiễn của người Hoa,
dựa vào sự căm hờn và ý chí chống Mianma của người Thái, Quốc Anh đã tập hợp được
dân binh, nhanh chóng đuổi được quân Mianma và truy quét trộn cướp, lập lại
chính quyền rồi tự lên ngôi vua, vào giữa năm 1767, gọi tên nước là Xiêm, đặt
vương hiệu là phraya Đắc Tân, âm Triều Châu đọc là Phìa Taksin. Phìa (phraya)
là tước vương Thái, còn Taksin (Đắc Tân: người thành đạt mới) là hiệu. Tục truyền
rằng, Taksin đã nhặt được quyền trượng của vua Thái trong đống tro gạch của
hoàng cung, nên đã dễ tập hợp được nhân dân chống Mianma.
Kinh đô cũ Ayuthaya đã bị phá hủy, Taksin quyết định dời kinh đô đến Chanburi
sau đổi tên là Băng Cốc, một địa điểm gần hơn biển. Một thế kỉ trước, khi vua Ayuthaya nhường cho người Pháp lập
thương điếm, nơi này còn là một bãi sình lầy bẩn thỉu, nay đã được xây dựng
khang trang và tụ hội đông đúc.
Sau khi lên ngôi Taksin tiếp tục cuộc chiến tranh với Mianma. Trong một
trận kịch chiến, Xiêm đã giành được thắng lợi và đẩy bật quân Mianma ra khỏi
Chiang Mai. Lan Na trở thành một thuộc quốc của nước Xiêm (năm 1776) và từ đây
dần dần trở thành một bộ phận lãnh thổ của người Thái. Cuộc xung đột Xiêm –
Mianma không phải vì thế mà chấm dứt. Ngược lại, nó vẫn tiếp diễn dai dẳng. Hơn 10 cuộc chiến
dữ dội đã nổ ra trong vòng nữa đầu thế kỉ XIX, trong đó có hai lần quân Thái tiến
sâu vào lãnh thổ Mianma. Cuộc xung đột kéo dài đến năm 1886 mới chấm dứt khi cả
hai nước đã không còn quyền tự chủ nữa mà đã do các nước tư bản phương Tây quyết
định.
Khi vương quốc Xiêm được khôi phục, nước Lan Xang đã bước vào giai đoạn
suy thoái. Lãnh thổ bị phân liệt thành 3 xứ do các thế lực khác nhau cắt cứ.
Nhân cơ hội đó, sau khi thắng Mianma ở Chiang Mai, Taksin cử hai đạo quân xâm
lược các mường Lào (năm 1778) và biến các mường này thành thuộc quốc của mình.
Đồng thời, Taksin cũng đòi hỏi các vương quốc Campuchia và Malaixia phải
tiếp tục thuần phục. Các tiểu quốc Mã Lai như Kedah, Kelanta, Trengganu và
Patani đã phục tùng.Trong khi đó vương quốc Campuchia là Srey – Sauryopor lại tỏ
ra bướng bỉnh, “ người ta không thể đối xử ngang hàng với một kẻ tiếm quyền,
con của một lái buôn người Hoa và một người đàn bà thường dân Xiêm”.
Taksin giận giữ, đã cử hai đạo
quân tấn công Campuchia (năm 1768). Đạo quân bộ đã bị lực lượng Campuchia phá
tan (năm 1769), nhưng thủy quân Xiêm lại gây cho phía Campuchia gặp nhiều khó
khăn. Campuchia phải cầu cứu chúa Nguyễn. Với sự giúp sức của người Việt, năm
1771, quân Xiêm bị thua đã phải rút về nước. Tuy nhiên, Xiêm không hề từ bỏ
tham vọng của mình đối với Campuchia.
Trong thực tế, Taksin đã tiếp tục một cách tích cực những công việc, những
chính sách mà các nhà vua Ayuthaya đã theo đuổi. Mặc dù đã cố gắng tỏ ra “quần
chúng”, gần gũi và ban phát cho dân nghèo, ông vẫn bị quý tộc, quan lại Thái
ghét. Năm 1782, Taksin bị một nhóm quý tộc mưu sát, cùng với cả gia đình ông.
Người cầm đầu hóm quý tộc này là Phra Phuti lên làm vua, hiệu là Rama I (1782-
1809) . Bên cạnh đó, Miến Điện thường xuyên xâm lược Ai Lao chiếm lấy Chiengmai
một tiểu quốc Thai , ngoai ra Đàng Trong không ngừng gia tăng ảnh hưởng lên Chân
Lạp và Ailao , nhìn chung bối cảnh ĐNA lục địa thế kỷ XVII – XVIII là mối quan
hệ rối ren phức tạp dựa vào lợi quốc gia, các quốc gia nhỏ yếu bị chèn ép phải
chịu thiệt thòi .
2.1.2 Yếu tố kinh tế - chính trị
Đàng trong thế
kỉ XVII, chính trị trong nước tương đối ổn định, nhưng từ nữa cuối thế kỉ XVIII, thì trong nước
quyền thần lộng quyền. Trương Phước Loan được thăng làm Quốc phó, giữ việc bộ Hộ,
quản cơ Trung tượng, kiêm Tàu vụ. Chúa còn nhỏ, chỉ thích vui chơi, ca hát,
Loan tự quyết định mọi việc, bán quan buôn ngục không kiên nễ ai.
Con trai Loan
là Thặng lấy công nữ Ngọc Nguyện, con chúa Thế Tông, Nhạc lấy công nữ Ngọc Đảo
cũng con chúa Thế Tông, đều giữ chức Chưởng dinh, Cai cơ. Cả nhà Phước Loan quý
sũng, quyền thế, át cả trong triều, ngoài quận. Loan càng ngày càng buôn lung,
tham lam, tàn nhẫn, người ta gọi là Trương Tần Cối. Cầm đầu bộ Hộ và Tàu vụ,
Loan đặt bè đảng là bọn Thái Sinh giữ những cửa sông, cửa biển trọng yếu để thu
thuế, Loan được thu thuế sản vật nguồn Thu Bồn và các nguồn Đồng Hương, Trà Sơn,
Trà Vân làm ngụ lộc, mỗi năm thu được 4,5 vạn quan, còn các món mà chức bộ Hộ
và Tàu vụ thu được mỗi năm cũng không dưới 3,4 vạn quan. Thêm vào đó, lại còn
bán quan, buôn ngục, Loan trở thành giàu lớn, vàng bạc, Châu ngọc, gấm vóc chất
như núi, ruộng vườn, nhà cửa, nô bộc, râu ngựa thì không biết bao nhiêu mà
tính. Loan có biệt thự ở làng Phần Dương, một năm lụt lớn, rương hòm ướt hết,
nước rút rồi, đem đồ đạt ra phơi, người ta thấy vàng sáng chói cả đầy sân.
Từ khi Trương
Phúc Loan chuyên quyền, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đều lấy
làm khổ sở. Trong khoảng 4 năm, năm năm tai dị hiện ra luôn: động đất, núi lỡ,
sao sa, nước đỏ, trăm họ đói kém, trộm cướp nỗi lên khắp nơi. Năm Kỉ Sửu
(1769), Hàn lân Nguyễn Quang Tiền nói với nhiều người rằng không quá năm sáu
năm nữa ở Quảng Nam
sẽ có binh nỗi dậy.
Thế mà Duệ
Tông cũng chỉ nghĩ đến việc vui chơi, xa xí, Năm ấy, sai các chây huyện lập phường
chơi xuân, mỗi phường 15 người, mỗi người nạp thuế 1 quan tiền để khi có hội hè
thì làm trò vui.
Ở Quảng Ngãi,
mọi Đá Vách thường xuống cướp phá, từ thời các chúa trước đã khiến dân Quảng
Ngãi lập 6 đạo quân, chia phiên đóng giữ các nơi, dân địa phương mới được yên. Năm
Canh Dần (1770), mọi ấy lại xuống quấy nhiễu. Chúa sai Kí lục Quảng Nam là Trần
Phước Thành làm cai bộ, tuần hành 5 phủ Thăng Bình, Điện Hàn, Quảng Ngãi, Quy
Nhơn, Phú Yên mưu tính cách đối phó, điều khiển tướng sĩ, binh dân của 6 đạo
binh Quảng Ngãi, hợp với quân lính 2 phủ Quy Nhơn và Phú Yên đi đánh dẹp.
Năm ấy, Nguyễn
Văn Nhạc ở Tây Sơn dấy binh. Nhạc người gốc huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), tổ bốn
đời thời Lê Thịnh Đức (1653- 1657), trong cuộc chiến tranh, quân chúa Nguyễn
đánh Nghệ An, bị bắt đưa vào cho ở ấp Tây Sơn Nhứt, thuộc phủ Quy Ninh. Cha Nhạc
là Phước dời đến ở ấp Kiến Thành, sinh 3 trai, trưởng là Nhạc, thứ là Huệ, út
là Lữ. Nhạc làm nghề buôn trầu, thường đến buôn bán với dân miền thượng ở đất mọi,
có lần đi qua núi An Dương được một cái kiếm, cho là thần vật, đem khoe với dân
chúng, nhiều người tin. Anh em Nhạc theo học với Giáo Hiến. Hiến biết Nhạc là
người có tài. Sau Nhạc làm Tuần biện lại ở Vân Đồn, vì tiêu hết tiền thuế, bị Đốc
Trưng là Đằng thôi thúc, đòi hỏi riết quá, phải trốn vào núi, làm nghề trộm cướp.
Giáo Hiến nuôi sẵn chí báo thù Trương Phước Loan, nói riêng với Nhạc rằng. Có lời
sấm nói “tây khởi nghĩa, bắc thu công- anh là người ở Tây Sơn, vậy hãy gắng lến!”.
Nhạc tin lời lấy làm mừng.
Để mượn thêm lực
lượng bên ngoài và gây thêm vây cánh bên trong, Nhạc mật ước với nữ chúa Chiêm
Thành tên là Thị Hỏa.
Tây Sơn nhanh
chóng chiếm Quy Nhơn sau đó chiếm trọn miền duyên hải. Thấy được Nam Hà có biến
chúa Trịnh cho quân đánh vào do Hoàng Ngũ Phúc làm tiết chế. Ngày 3 táng giêng
năm 1785 Phú Xuân thất thủ. Chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng gia quyến và quan tùy
tùng hơn một trăm người ra cửa Tư Dung chạy về Gia Định.Đàng trong bị phân chia
làm ba khu vực: Quảng Nam, Thuận Hóa quân Trịnh chiếm đóng, Gia Định chúa Nguyễn
vẫn giữ phần còn lại Tây Sơn chiếm, gần 15 năm chinh chiến Tây Sơn đã chiếm gần
như trọn Đàng Trong. Vào năm 1786, phía Bắc đánh bại quân Trịnh, ở Gia Định
chúa Nguyễn thoát chết, nhiều lần phải lưu vong nương nhờ ngoại ban trong đó có
cả Xiêm.
Năm Bính Tuất
(1766),được xin vua Tiêm là Phung vương (Ekathat) sửa soạn binh Athuyền sang Hà
Tiên, Mạc Thiên Tứ phi báo về dinh Điều khiển Gia Định xin quân ứng viện. Nhưng
rồi vua nước Miến Điện là Mangra sang 2 đạo binh sang đánh Tiêm La, tàn phá nước
này rồi đến đóng trước kinh đô A Du Đa( Ayuthya). Năm sau A Du Đa bị hạ, đốt
phá hết. Vua Tiêm ( Ekatha) trốn nhưng bị bắt rồi chết. Nước Tiêm La đã gần bị
xóa tên trên bản đồ thế giới, may có một người tên là Trịnh Quốc Anh con của một
người Tàu Triều Châu tên là Yển, làm chức quan cai trị đất Mường tát, tổ chức
quân đội, cương quyết chống đánh, diệt đạo quân Miến, rồi năm Mậu Ti (1768) tự
lập làm vua, đóng đô ở Thonbury, gần Vọng Cát. Sau khi Trịnh Quốc Anh lên làm
vua Xiêm đòi Chân Lạp cống, vua Chân Lạp là Mặc Tôn cho rằng Quốc Anh không phải
chính thống nên không cống. Năm 1781, Quốc Anh sai tướng Chakri chỉ huy kéo
quân sang Chân Lạp. Vua Campuchia là Nặc Ân sang cầu cứu chúa Nguyễn. Năm 1782,
Nguyễn Quốc Anh cử Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lăn đem 3000 quân sang và đóng ở
Lovek. Thấy Chakri ra quân lâu không thắng nên Trịnh Quốc Anh sinh nghi bắt
giam cả gia đình Chakri. Chakri tức giận hòa với Nguyễn đem quân về nước giành
lấy ngôi vua. Quốc Anh sợ phải gọt đầu đi tu. Chakri mở ra triều đại mới và tồn
tại cho đến ngày nay.
Về kinh tế:
tuy có sự tranh giành ảnh hưởng trong khu vực nhưng mối quan hệ buôn bán giữa
hai nước vẫn phát triển với những hải cảng quan trọng như Băng Cốc, Đà Nẵng,
Gia Định, tàu bè hai nước vẫn thường xuyên ra vào để thuận lợi cho việc buôn
bán vì hải phận Thủy Chân Lạp giáp tiếp với hải phận Tiêm La, ghe thuyền hai nước
thường xuyên qua lại, ghe thuyền Tiêm La muốn đến các hải cảng Trung Hoa là những
nơi họ thường xuyên đến mua hàng hóa, phải đi qua Hà Tiên, ghe thuyền nước này
gặp gió bão, có khi trôi giạt đến hải phận nước kia. Nhờ sự giao hảo giữa hai
nước, các ghe thuyề và người trong thuyền bị trôi giạt được trao trả cho nhau.
Năm Ất Dậu (1755), theo lời yêu cầu của Tiêm, chúa Thế Tông sai cấp cho quan
thuyền Tiêm La, một tấm long bài để được miễn thuế khi vào các cửa biển Nam Hà.
2.1.3 Yếu tố Chân Lạp
Năm 1618 vua
Chetha II lên ngôi (1618- 1628), dời đô về U-đông, muốn thoát khỏi sự lệ thuộc
Thái Lan. Năm 1623, vua Chetha II xin cưới một công chúa Việt Nam và yêu cầu
chúa Nguyễn Phước Nguyên gửi viện binh đến giúp chống Xiêm, mặt khác cũng đồng
ý để đất Gia Định cho chúa Nguyễn.
Vương quốc
Xiêm được thành lập năm 1767 tiếp tục thi hành đường lối khống chế Vương quốc
Chân Lạp. Cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phe trong triều đình Khơ-me vẫn
tiếp tục và càng tiếp tục thì càng thúc đẩy sự can thiệp của triều đình
Xiêm.
Năm 1794 Bangkok đưa ông hoàng Ang
Eng về U-dông làm vua. Ông này không chịu được cảnh lệ thuộc Xiêm nên ra lệnh bắt
những phần tử thân Xiêm. Xiêm đưa ngay quân sang U-đông. Ông tổ chức chống lại,
mặt khác yêu cầu triều đình Huế cho quân sang giúp. Vị trí của ông được củng cố,
khi ông ốm chết, Xiêm đưa quân sang Chân Lạp gây ra cuộc chiến tranh kéo
dài từ 1841 đến năm 1845 cả quân đội Xiêm và quân đội Việt Nam thoả thuận rút
khỏi Chân Lạp và Ang Dông lên ngôi vua với sự chấp nhận của cả hai bên. ừ khi
được thành lập năm 1350, nước Ayuthia đã liên tiếp xâm lược Chân Lạp qua ba
giai đoạn (thế kỷ XIV, XV và XVII). Có lần Chân Lạp bị Ayuthia đô hộ năm năm liền.
Sau lần đánh Nghệ An cuối cùng, Chân Lạp không còn lần nào đánh Đại Việt nữa và
giữa Chân Lạp và Đại Việt cũng không có tiếp xúc gì, có lẽ vì hai nước vẫn cách
xa nhau và bản thân Chân Lạp luôn luôn lo đối phó với các cuộc xâm lược của nước
Ayuthia hiếu chiến.
Vương quốc
Xiêm được thành lập năm 1767, và vẫn tiếp tục chính sách xâm lược và can thiệp
của vương triều Ayuthia. Nhà Tây Sơn sau khi chiếm vùng lãnh thổ của chúa Nguyễn
đã tiếp tục tiến xuống phía Nam và chiếm nốt phần còn lại của Vương quốc Chiêm
Thành Bai Chanar (tức là Phan Rí) vào khoảng năm 1795 (Thật ra đến khi đó đất
Phan Rí đã đặt dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn).
Từ năm 1698,
Nguyễn Hữu Cảnh đã được cử làm kinh lược xứ Đông Nai và đặt đại bản doanh tại
Cù Lao Phố. Năm 1618 vua Chân Lạp Chậy Chetta II cưới con Sãi vương Nguyễn
Phước Nguyên, không những mở đầu giai đoạn quan hệ Chân Lạp - Đại Việt mà còn tạo
điều kiện để Đại Việt đóng vai trò trên chính trường Chân Lạp.
Kế tiếp ngôi
vua Chetta II sau khi ông mất, vua Ang Eng là người đầu tiên yêu cầu Đại Việt
mang quân sang giúp ông đánh lại Xiêm. Nhưng về sau năm 1688 vua Nặc Thu
bang Sau đã được lên ngôi nhờ sự giúp đỡ của chúa Nguyễn, lại đắp luỹ ngăn sông
để đối phó với quân của Hoàng Tiến, người đã giết Dương Ngạn Dịch đang theo Đại
Việt Tướng Nguyễn Hữu Hào, anh ruột Nguyễn Hữu Cảnh, đi dàn xếp việc người Hoa
cướp phá các làng mạc Khơ-me.
Năm 1699 Nguyễn
Hữu Cảnh được cử vào trấn Biên lo việc biên giới. ông đã đến thẳng thành luỹ đối
phương giải thích rõ chính sách tôn trọng lân bang của Việt Nam . Vua Nặc Thu chịu thần phục Việt
Nam 1.
Tình hình Chân
Lạp, do những tranh giành ảnh hưởng trong nội bộ hoàng tộc Chân Lạp và chính
sách can thiệp của Vương quốc Xiêm, ngày càng trở nên phức tạp và rối ren. Thế
kỷ XVI mười ba vua thay đổi nhau trị vì đất nước với nhiều tranh giành trong
triều đình. Đến thế kỷ XVIII tình hình, vẫn do những nguyên nhân ấy, càng tồi tệ
hơn. Có mười bảy vua thì bảy người bị giết chết, ba người bị lật đổ bảy người
còn lại thì bị bốn cuộc bạo động chống đối lớn 2.
Quan hệ Đại Việt
- Chân Lạp chỉ xuất hiện từ cuối thế kỷ XVII khi hai nước có chung biên giới,
và từ đây do chính sách thống trị của Vương quốc Xiêm và yêu cầu của phải chống
Xiêm trong hoàng tộc Chân Lạp, hai nước Đại Việt và Xiêm trở thành địch thủ, dẫn
tới việc Xiêm đem quân can thiệp miền Nam Việt Nam, và cuộc chiến tranh lớn giữa
hai nước trên lãnh thổ Chân Lạp vào nửa đầu thế kỷ XIX và việc quân đội Việt
Nam chiếm đóng Chân Lạp. Chân Lạp đã trở thành mảnh đất tranh giành ảnh hưởng
giữa Đại Việt và Vương quốc Xiêm trước khi trở thành thuộc địa của thực dân
Pháp.
2.1.4 Yếu tố Ai Lao
Sau thời kỳ Pha Ngủm và Xảm Xên
Thay, từ năm 1428 đến 1456, Lạn Xạng rơi vào tình trạng hỗn loạn, thậm chí có
lúc không có vua. Từ đầu thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVI Lạn Xạng hết bị Ayuthya
xâm lược hai lần lại bị Ava (Mianma) xâm lược ba lần, chiếm kinh đô Viếng Chăn
và đưa một người thân Ava lên làm vua.
Đến năm 1592 người Lào mới giành lại được độc lập, chấm dứt sự lệ thuộc
Ava. Lạn Xạng bước vào thời kỳ toàn thịnh trong thế kỷ XVII Thời gian này vua
Xulinhavongxa đặt quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng trong đó có Đại Việt
với Xiêm, vua đã thoả thuận với vua Ayuthya làm một ngôi tháp hữu nghị trên
biên giới tại Mường Dàn Xài. Với Đại Việt người ta cũng giải quyết một số vấn đề
về biên giới.
Từ thế kỷ XVIII, Lạn Xạng bước vào thời kỳ suy yếu rồi bị chia cắt làm ba
tiểu Vương quốc. Trong nước Lạn Xạng, tuy có một chính quyền tay sai ở Viếng
Chăn, một số Mường ở vùng biên giới Lào - Việt không chịu theo mệnh lệnh của
chính quyền Viếng Chăn.
Chính quyền thân Xiêm ở Viếng Chăn đem quân đánh Xiêng Khoảng, bắt châu
Mường Xiêng Khoảng đưa về Viếng Chăn. Việc đó làm cho quan hệ với Đại Việt trở
nên căng thẳng. Lúc này tại Đại Việt nhà Tây Sơn đã làm chủ xứ Đàng Trong, Nguyễn
Huệ đã đánh đổ chế độ Lê - Trịnh, lên ngôi Hoàng đế và đánh tan 29 vạn quân
Thanh.
Vua Quang Trung muốn thông hiểu với Lạn Xạng nên năm 1791 đã cử một phái
bộ đến Viếng Chăn. Vua Viếng Chăn là châu Nanthaxến, vốn là người thân Xiêm, đã
bắt sứ giả và giải sang Bangkok .
Vua Quang Trung bèn phái đốc trấn Nghệ An Trần Quang Diệu và đô đốc Bùi Thị
Xuân mang ba vạn quân đi đánh Lạn Xạng.
Đại quân của Trần Quang Diệu đã hạ được Trấn Ninh, Trình Cao, Quỳ Hợp rồi
tiến thẳng tới Viếng Chăn. Vua Nanthaxến không chống lại được, phải bỏ chạy
sang Bangkok .
Quân của Trần Quang Diệu truy kích đến bờ sông Mê Nam Khoáng. Quân Xiêm ở
bên kia sông không dám qua sông sang cứu quân của Viếng Chăn. Quân của Trần
Quang Diệu dừng ở bên này sông rồi trở về Nghệ An.
Vua Nanthaxến được quân Xiêm đưa về Viếng Chăn. Chậu Mường Luôngphabăng tố
giác với Xiêm là châu Mường Viếng Chăn quan hệ với Tây Sơn dù chưa biết thực hư
thế nào, vua Xiêm sai bắt chậu Nanthaxến về Xiêm, hai năm sau Nanthaxến chết.
Dưới thời Tây Sơn, quan hệ Đại Việt - Lạn Xạng đến đây là xong một giai
đoạn, nhưng do vị trí Lạn Xạng là một nước đệm giữa Xiêm và Đại Việt và do ý đồ
bành trướng của Xiêm, quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng và Lạn Xạng trở
thành một địa bàn tranh giành ảnh hưởng giữa hai nước ở thế kỷ XVIII.
2.2 Tác động của mối quan hệ chính quyền Đàng Trong – Xiêm
trong các thế kỉ XVII – XVIII
2.2.1 Đối với chính quyền Đàng Trong
Lợi ích về kinh tế trong mối quan hệ Xiêm với Đàng
Trong không lớn lắm, vì chính quyền Đàng Trong chú trọng về nông nghiệp là
chính, bên cạnh giao thương thì các nước cũng quan tâm đến việc đặt quan hệ với
Xiêm, có lợi cho việc buôn bán trao đổi giữa hai quốc gia. Rừ khi mở đất về
phương Nam tới vịnh Xiêm nhu cầu giao thương ngày càng cao, ghe thuyền hai nước
thường qua lại, ghe thuyền Xiêm muốn đến cảng Trung Hoa phải qua lãnh hải của
Đàng Trong, đây là cái lợi cho thương mại, họ phải quá cảnh qua Hà Tiên, Gia Định
và Quảng Nam nên buôn bán cũng được đẩy mạnh, bên cạnh đó ghe thuyền buôn bán của
Đàng Trong vào Băng Cốc cũng khá đông. Bên canh đó, về mặt ngoại giao của hai
nước, về giành ảnh hưởng Chân Lạp có thể giải quyết như chấp nhận một vị vua của
Chân Lạp lên ngôi. Việc quan hệ Đàng Trong- Xiêm vẫn thể hiện một nước lớn với
giọng đàn anh qua thơ tự ta vẫn thấy. Từ đó khẳng định vị trí của Đàng Trong là
một quốc gia lớn, hùng mạnh, trong khu vực mà các đại thần của Thanh đã nhận
xét: “Nước Quảng Nam
hùng trị một phương, thôn tính Chiêm Thành, Chân Lạp, sau ắt sẽ lớn”.
Bên cạnh những
mặt lợi đó chúng ta cũng chịu không ít thiệt hại trong mối quan hệ này do sự
tranh giành ảnh hưởng trong khu vực, chiếm lấy Chân Lạp hai nước thường xuyên dẫn
đến chiến tranh, thiệt hại về người và của rất lớn. Kể từ cuối thế kỉ XVIII,
tình hình quốc tế trong khu vực có những biến động mới: Xứ Đàng Trong bắt đầu
có biên giới chung với Campuchia. Việt Nam bắt đầu có vai trò quốc tế ở
Campuchia và Lào.
Quan hệ của Việt
Nam
thời chúa Nguyễn hay thời Tây Sơn vượt quá phạm vi quốc gia và liên quan tới một
nước thứ ba, Vương quốc Xiêm. Năm 1674 triều đình Campuchia có biến động.
Nặc Ông Đài đuổi vua Nặc Ông Nộn, Nộn chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn
cử Nguyễn Dương Lâm mang quân sang giúp, Nặc Ông Đài thua bỏ chạy rồi tử trận.
Chúa Nguyễn
phong cho Nặc Ông Thu làm vua, còn Nặc Ông Nộn làm phó vương đóng tại Sài Gòn.
Vua Chạy Chetta xin cưới một công chúa Việt Nam nhằm giành được sự ủng hộ của
triều đình Huế chống lại Xiêm.
Năm 1698 chúa
Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh vào Sài Gòn làm kinh lược tổ chức bộ máy hành chính
và việc khẩn hoang đất Gia Định. Năm 1699, Nặc Ông Thu cho đắp luỹ ở Lovek và
Phnom Pênh để ngăn cản việc buôn bán. Nguyễn Hữu Cảnh được lệnh đi đánh. Nặc
Ông Thu đem quân ra chặn nhưng trước sức mạnh và uy thế của Nguyễn Hữu Cảnh, Nặc
ông Thu bỏ chạy, Ang Eng con của vua ông Nộn mở cửa thành ra hàng. Nguyễn Hữu Cảnh
lại mời Nặc Ông Thu trở lại Lovek làm vua.
Năm 1771 vua
Tác Xỉn dẫn quân Xiêm tràn vào Campuchia và lập Nặc Ông Nộn lên làm vua thay Nặc
Tôn đồng thời chiếm đóng Phnom Pênh và có ý nhòm ngó đánh Gia Định. Năm 1772,
quân của Nguyễn Cửu Đàm đi đánh đuổi quân chiếm đóng Xiêm; đi đến đâu quân Xiêm
bị diệt đến đó. Cả vua Xiêm và Nặc Nộn đều chạy. Quân ta thu phục khắp nơi (Trừ
Hà Tiên năm sau mới giải phóng), giải phóng Phnom Pênh, lovek, đưa Nặc Tôn trở
lại làm vua.
Một yếu tố tác
động đến thái độ của Việt Nam
ở miền Nam
đối với Campuchia và Thái Lan là sự thay đổi người làm chủ Sài Gòn:
Từ tháng 3 năm
1776 đến tháng 6 năm 1776: Nguyễn Lữ chiếm Sài Gòn.
Tháng 5 năm
1776, Đỗ Thành Nhơn chiếm lại Sài Gòn và rước chúa Nguyễn về. Đến tháng 3 năm
1777 Nguyễn Ánh mang quân sang Campuchia đòi nộp cống như xưa.
Từ tháng 3 năm
1777 đến tháng 10 năm l777: Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đánh Gia Định, hai chúa
Nguyễn chạy trốn rồi bị giết chết. Nguyễn Lữ và Nguyễn huệ lấy xong Gia Định rồi
rút về Quy Nhơn.
Từ tháng 10
năm 1777 đến tháng 12 năm 1777 : Nguyễn Ánh chạy ra Phú Quốc, thêm quân tiếp viện
đánh bại tổng trấn Châu và lấy lại Sài Gòn. Nguyễn Ánh được tôn là Đại
nguyên soái nhiếp chính quốc.
1779 Đỗ Thanh
Nhơn và Hồ Văn Lân mang quân sang Campuchia giải quyết việc tranh chấp cướp
ngôi vua, đưa Nặc Ân lên làm vua, Hồ Văn Lân làm bảo hộ vua; Nguyễn Ánh xưng
vương tại Sài Gòn. Vua Xiêm Tắc Xỉn cử tướng Chakkri xâm lược Campuchia, Nặc Ân
cầu cứu chúa Nguyễn.
Năm 1782 Nguyễn
Ánh cử Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân mang 3000 quân sang Cam
pu chia. Ngờ Chakkri âm mưu giết mình, Tắc Xỉn bắt giam vợ con Chakkri. Chakkri
kết bạn với tướng Nguyễn Hữu Thoại rồi đem quân về Xiêm giết Tắc Xỉn, tự lập
làm vua xưng là Ram 1.
Từ tháng 3 năm
1782 đến tháng 8 năm l782: Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ mang đại binh vào đánh Gia
Định . Nguyễn Ánh thua chạy ra Phú Quốc. Bình định xong Gia Định, Nhạc và Huệ
trở về Quy Nhơn.
Từ tháng
8 năm 1782 đến tháng 2 năm 1783: Tướng Đỗ Thành Nhơn lấy lại Sài Gòn, rồi cho
người ra Phú Quốc đón Nguyễn Ánh về.
Từ tháng 2 năm
1783 đến tháng 8 năm l783: Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ lại đánh Gia Định, quân Nguyễn
thua to, Nguyễn Ánh chạy ra đảo Phú Quốc. Tháng 6 quân Tây Sơn ra đánh Phú Quốc,
Nguyễn Ánh chạy được sang một đảo khác rồi trốn sang Xiêm. Cho là việc bình định
đã xong, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn, để tướng Trương Văn Đa
giữ Gia Định.
Như vậy trong
thời gian bảy năm (1776- 1783), quyền làm chủ Sài Gòn luôn luôn thay đổi giữa
Tây Sơn và chúa Nguyễn nhưng chỉ có chúa Nguyễn có quan hệ với triều đình
Campuchia kể cả việc đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi Campuchia.
Như trên đã
nói, từ 1781 quân Xiêm do tướng Chakkri chỉ huy đã kéo sang Campuchia. Vua
Campuchia Nặc Ân sang cầu cứu chúa Nguyễn. Năm 1782 Nguyễn Ánh cử Nguyễn
Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đem ba nghìn quân sang cứu và đóng ở Lovek.
Đã sẵn âm mưu
thôn tính Campuchia, Xiêm lại muốn nhân dịp này xâm chiếm luôn miền Nam nước
ta. Vua Xiêm cho mời Nguyễn Ánh sang Bangkok hội
ý. Sau đó vua Xiêm đồng ý đưa quân sang miền Nam . Vua quyết định đưa hai vạn thuỷ
quân. Tháng 6 năm 1784 Nguyễn ánh dắt quân Xiêm về đánh Gia Định. Ngoài ra vua
Xiên còn cử hai tướng Lục Cơ và Sa Uyển cùng với Chiêu Thuỳ Biện (một cựu thần
Chân Lạp đã đầu hàng Xiêm) đem hai đạo bộ binh từ Chân Lạp mở một mũi tiến công
đánh xuống Gia Định rồi phối hợp với thuỷ quân.
Hai vạn quân
thuỷ và ba trăm chiến thuyền dưới quyền chỉ huy của tướng Chiêu Tăng từ Bangkok
vượt biển đánh chiếm Gia Định. Tàn quân của Nguyễn Ánh cũng được tập hợp và
giao cho Chu Văn Tiếp được phong là Bình Tây đại đô đốc chỉ huy.
Thuỷ quân Xiêm
đổ bộ lên Kiên Giang, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam dưới
danh nghĩa “giúp Nguyễn Ánh”. Phối hợp với ba vạn quân bộ của Sa Uyển và Chiêu
Thuỳ Biện, thuỷ quân Xiêm đánh chiếm Trấn Giang (Cần Thơ), một vị trí chiến lược
quan trọng ở miền Tây Gia Định.
Như vậy cả thuỷ
bộ, Xiêm có 5 vạn quân, không kể quân bản bộ của Nguyễn Ánh. Sau gần 4 tháng,
quân Xiêm đã chiếm được Kiên Giang, Trấn Giang, Ba Xắc (Sóc Trăng), Trà Oi, Sa
Đéc, Mân Thít (Vĩnh Long), Ba Lai (Bến Tre), Trà Tân (Mỹ Tho) và kiểm soát nửa
phía Tây Gia Định về hữu ngạn sông Tiền (tức là ba tỉnh Hà Tiên, An Giang, Vĩnh
Long).
Cuối năm 1784,
đô uý Đặng Văn Trấn từ chiến trường về Quy Nhơn báo cáo tình hình Gia Định. Bộ
chỉ huy quyết định cử Nguyễn Huệ đem thuỷ quân vào Nam tổ chức phản công, nhanh
chóng quét sạch quân Xiêm-Nguyễn ra khỏi đất Gia Định. Nguyễn Huệ dùng thuyền
chiến vượt biển vào Gia Định khoảng đâu tháng giêng 1785, đóng quân và đặt sở
chỉ huy tại Mỹ Tho.
Nguyễn Huệ biết
ràng so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch. Kể cả quân của Trương
Văn Đa, Nguyễn Huệ chỉ có khoảng 2 vạn quân trong khi địch có năm vạn quân
không kể quân bản bộ của Nguyễn ánh. Yêu cầu là đánh nhanh giải quyết nhanh. Với
số quân mấy nghìn người, Trương Văn Đa phải tạm thời rút lui, nhưng vẫn giữ những
vị trí quan trọng như Mỹ Tho, Gia Định, vừa rút vừa đánh và cố gây tổn thất cho
địch.
Trong trận Mân
Thít, quân Trương Văn Đa đã giết Bình tây đại đô đốc của Nguyễn Ánh là Chu Văn
Tiếp, làm bị thương tướng Xiêm là Thái Xi Đa. Trong trận đánh đồn Ba Lai
và Trà Tân, quân Trương Văn Đa còn giết chết tướng Đặng Văn Lương của Nguyễn
Ánh. Để tăng thêm chủ quan cho địch, Nguyễn Huệ dùng một người Chân Lạp làm sứ
giả đem vàng bạc, gấm vóc đến gặp chủ tướng của quân Xiêm xin giảng hoà.
Tân triều (tức Tây Sơn - TG) và cựu triều (tức
Nguyễn Ánh - TG) nước tôi tranh nhau lãnh thổ và nhân dân không thể cùng đứng với
nhau được. Nước tôi cùng nước Xiêm cách trở xa xôi, trâu và ngựa không đánh hơi
nhau được, chẳng hay vương tử (chỉ Chiêu Tăng là cháu của vua Xiêm - TG) đến chốn
này làm gì. Chi bằng hai nước chúng ta hoà hiếu với nhau. Sau khi xong việc, nước
tôi sẽ y lệ hiến cống. Như thế có phải là được lợi lâu dài không? Vậy việc cứu
chúa (chỉ Nguyễn Ánh - TG) nước tôi để mặc chúng tôi lo liệu, xin vương tử đừng
có giúp đỡ” .
Với những trận
đánh nhử, bề ngoài lơ là của quân lính và nhất là kịch bản giảng hoà đồng thời
giữ vững khí thế của quân ta, Nguyễn Huệ đã chuẩn bị chu đáo tinh thần quyết
chiến của quân ta.
Về địa bàn phục
kích, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng nắm được địa hình và nghiên cứu kế hoạch bố trí
quân và quyết định chọn khúc sông Mỹ Tho giữa Mỹ Tho và Trà Tân. Quân Xiêm đang
đóng ở Trà Tân cách Mỹ Tho khoảng hai mươi cây số. Ý đồ của chúng là từ Trà Tân
tiến chiếm Mỹ Tho, như thế phải đi qua đoạn sông Mỹ Tho. Giữa Mỹ Tho và Trà Tân
có hai sông nhỏ đổ vào sông Mỹ Tho là Rạch Gầm và Rạch Xoài Mút cách nhau khoảng
bảy cây số. Cửa đổ ra sông của hai rạch đều rộng lại nhiều cỏ lác và cây bần (một
loại cây nhỏ mọc ở địa phương) rất thuận lợi cho việc giấu quân. Đối diện hai rạch
là cù lao Thới Sơn và cù lao Hộ. Thế trận bày ra đã rõ: thuỷ quân ở hai rạch sẽ
chặn đầu, khoá đuôi đại bác ta sẽ bắn vào những tên nào muốn đổ bộ lên hai cù
lao.
Đêm ngày mồng
9 tháng chạp (tức là 19 tháng 1 năm 1785) địch dời Trà Tân tiến về Mỹ Tho theo
sông Mỹ Tho. Quân Nguyễn Huệ đã sẵn sàng: thuỷ quân giấu ở hai rạch, bộ binh và
pháo bố trí trên bờ sông và cù lao. Một số chiến thuyền của ta vẫn bố trí
ở Mỹ Tho để nghi binh.
Chiêu Tăng,
Chiêu Sương đã huy động toàn bộ lực lượng thuỷ quân và một bộ phận bộ binh.
Quân bản bộ của Nguyễn Ánh cũng tham gia cuộc tiến công. Nguyễn Ánh đi đầu với
các tướng thân cận phòng khi bất trắc thì còn kịp tháo chạy. Y còn bố trí sẵn
thuyền ở Long Hồ (Vĩnh Long) để đón Nguyễn Ánh khi cuộc tiến công bị thất bại.
Dưới sự chỉ
huy trực tiếp của Nguyễn Huệ, quân ta để đoàn hơn ba trăm chiếc thuyền của Xiêm
lọt vào trận địa mai phục, đầu đến Rạch Xoài Mút đuôi đến Rạch Gầm lúc rạng
sáng 19 tháng 1 năm 1785 thì hai mũi thuỷ quân đổ ra đánh, chia cắt đoàn thuyền.
Trong khi đó đại bác trên bờ và cù lao Thới Sơn tập trung bắn vào các thuyền. Đội
hình quân địch rối loạn. Toàn bộ thuyền chiến hơn ba trăm chiếc kể cả thuyền của
quân Gia Long bị đắm hay phá huỷ.
Trận đánh kết
thúc rất nhanh và đạt kết quả to lớn. Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng một số quân
lên được bờ Bắc chạy về phía Campuchia để về Xiêm. Số tàn quân chạy tán loạn độ
vài nghìn.. Theo Vũ Thế Dinh, số quân còn lại là hơn một vạn 2.
Về phía quân
Gia Long, viên cai cơ chỉ huy quân thuỷ chết tại trận. Chủ tướng của quân Gia
Long là Lê Văn Quân vừa chạy vừa thu tàn quân, lúc sang tới tới xiêm còn sáu
trăm quân. Nguyễn ánh cùng một số tướng tá chạy đến Trấn Giang (Cần Thơ) đi
thuyền ra Hà Tiên rồi các đảo Thổ Chu, Cổ Cốt, từ đó sang Xiêm. Số quân bản bộ
của Nguyễn ánh chạy thoát sang Xiêm là hơn tám trăm người (trước trận đánh là
ba, bốn nghìn).
Như vậy quân
Xiêm mất gần bốn vạn người, tức là bốn phần năm tổng số quân Xiêm lúc vào trận,
số quân Gia Long bị diệt hơn ba nghìn người. Quân Tây Sơn đã quét sạch địch ra
khỏi đất Gia Định, thu hồi những vùng đất đã bị chiếm. Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
là một trong những trận thuỷ chiến lớn nhất và lừng lẫy nhất trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc ta.
Trong bản dịch
gửi quan lại, quân dân hai phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Quang Trung có quyền nói:
“Nơi đâu ta đã
đem quân đến là quân thù đều bị đánh cho thất bại và tan tác. Nơi đâu ta đã mở
rộng chiến trận là quân Xiêm và quân Thanh tàn bạo đều phải quy hàng” .
Sau trận này,
Xiêm sợ Tây Sơn như cọp. Năm 1790 tại Bắc Kinh sứ ta gặp sứ Xiêm tại triều đình
nhà Thanh, hai bên cùng dự yến tiệc với nhau trong gần hai tuần, đối xử với
nhau bình thường. Ánh còn lưu lại Xiêm một thời gian để lo tổ chức lực lượng.
Xiêm sợ can thiệp vào Việt Nam
một lần nữa nhưng vẫn tiếp tục thực hiện ý đồ khống chế Vương quốc Chân Lạp và
đó là một chính sách dẫn tới sự đụng độ mới với Việt Nam thời nhà Nguyễn.
2.2.2 Đối với phong kiếm Xiêm
Cũng như Đàng
Trong, mối quan hệ của Xiêm với Đàng Trong họ cũng dựa vào lợi ích của mình, nhằm
nâng cao việc buôn bán giữa hai nước. Nước Xiêm muốn giao thương với các nước
Đông Bắc Á, cũng như Đàng Ngoài phải qua lãnh hải Đàng Trong, nên cũng có mối
quan hệ nhất định với Đàng Trong. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ này để
nâng cao vai trò trong khu vực cũng như tranh giành ảnh hưởng chính với Đàng
Trong là Chân Lạp.
Suy cho cùng
Xiêm vẫn ở thế yếu so với Đàng Trong, chiến tranh không những đến từ một mặt
phía Đông Chân Lạp, và một đối thủ rất nguy hiểm đến từ phía Tây, Tây Bắc là Miến
Điện .Đã có 109 năm chiến tranh với Miến Điện ( 1549- 1766), về phía Miến Điện
có 9 cuộc tấn công xâm lược Xiêm. Nay lai đối đầu với Đàng Trong, một quốc gia
hùng mạnh trong khu vực không hề thua kém Miến Điện, những thiệt hại về người
và của do chiến tranh gây ra vô cùng to lớn, làm cho đất nước bị suy yếu đi một
phần, chính trị trong nước không ổn định, cát cứ khắp nơi, quá trình thống nhất đất nước gặp nhiều khó khăn
và nhiều xương máu.
2.2.3 Đối với một số nước trong khu vực
Quan hệ giữa
Đàng Trong- Xiêm đã làm ảnh hưởng rất lớn đến các nước trong khu vực, đã biến
Chân Lạp và Ai Lao trở thành chiến trường của Đàng Trong- Xiêm. Buộc các quốc
gia này phải có chính sách hợp lý để không mất độc lập và chính sách này cũng
phải dựa vào thời thế, hoàn cảnh cụ thể lúc mạnh yếu của Đàng Trong- Xiêm.
Năm 1603, Xiêm
đã đưa Soryopor lên ngôi( 1603-1618). Soryopor tự xưng là chư hầu của Xiêm, áp
đặt các nghi lễ của triều đình Xiêm. Sự phản ứng trong nước đã nổ ra. Năm 1618,
Soryopor phải buộc thoái vị và nhường ngôi cho con là Chetta II(1618- 1628).
Ông đã tuyên bố độc lập với Xiêm và khôi phục lại cách ăn mặc và nghi lễ Khome
truyền thống. Ông đã dời đô về Oudong phía Nam Lovek. Để khôi phục lại ảnh hưởng
của mình, Năm 1623 Xiêm lại mở hai cuộc tấn công Campuchia, nhưng đều bị hai
anh em Chetta II đánh bại. Năm sau một cuộc tấn công bằng đường biển của quân
Xiêm cũng thất bại.
Cuộc tấn công
của Xiêm liên tiếp khiến Chetta II quay sanh nhờ chúa Nguyễn giúp đỡ. Chetta II
đã cưới một công chúa người Việt – Ngọc Vạn – năm 1620 và liên minh với Huế chống
Xiêm. Chetta II cho cúa Nguyễn lập các
khu định cư ở Preykor (Sài Gòn sau này) để giữ an ninh. Năm 1658, hai người con
của Outey là So và Angtan đã trốn thoát trong cuộc thảm sát, đã nổi dậy chống lại
Chan, nhưng bị thất bại, họ tìm đến người vợ góa của Chetta II ở Huế, và đã làm
trung gian nhờ chúa Nguyễn giúp đỡ.
Năm 1673, Angchei được vua Xiêm giúp chiếm lại Mộ Xoài.
Chúa Nguyễn cho cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Đường Lâm vào đánh. Angchei thua
chạy vào rừng và bị người trong phái giết chết. Chey Chetta IV (Nặc Thu) cho
biên soạn và cải cách luật pháp, vì năm 1583 Xiêm đánh chiếm Lovek, thiêu hủy hết
thư tịch.
Năm 1695, Chey
Chetta IV thoái vị và đưa hoàng tử Outey lên ngôi, được 6 tháng thì Outey chết.
Chetta lại lên làm vua. Ông thoái vị lần thứ hai vào năm 1699, trao ngôi cho
hoàng tử Angem, nhưng sau đó năm 1701 bị phế truất, vì bị coi là thiếu năng lực.
Chetta lên ngôi lần thứ 3. Năm 1702, ông lại thoái vị và đưa con mới 12 tuổi
lên ngôi, ông làm phụ chính. Hai năm sau ông lại phế truất con và lên ngôi lần
thứ 4 kéo dài đến năm 1706.
Việc vua thoái
vị và lên ngôi liên tiếp đã gây ra tác hại rất lớn đến quyền lực của triều
đình. Các hoàng tử bị phế truất trở thành các đối thủ tranh giành quyền lực, họ
làm suy yếu đất nước, dẫn tới sự can thiệp nhiều hơn của nước ngoài. Năm 1722,
quân Xiêm lại tiến hành các cuộc hành quân nhằm đưa Thommo Reachea trở lại ngôi
vua. Với sức ép mạnh của quân Xiêm, Angem đã thay đổi thái độ, chấp nhận triều
cống cho Xiêm. Xiêm đồng ý rút quân, đem theo cựu quốc vương và em trai là
Angtong.
Trong thời kì
này (1722- 1733) Campuchia rơi vào tình trạng hỗn loạn với một vua và 3 cựu quốc
vương. Họ ra sức tranh thủ Xiêm và Việt Nam một cách thiếu suy xét. Năm
1738, Satha II mất ngôi vì cuộc đảo chính trong hoàng cung, họ gọi Xiêm giúp và
đưa Thomm Reachea về nước (Nặc Thâm). Quân Xiêm tiến vào Korat, một đạo quân đi
đường biển vào tỉnh Campot. Satha II chạy sang Việt Nam cầu viện. Sau khi lên ngôi,
Thommo lập tức mở chiến dịch trục xuất người Việt đến tận sông Mekong, nơi mà
Huế đã bắt đầu mở rộng quyền lực của mình, Thommo chuyển hướng tấn công vào Mạc
Cửu. Mạc Cửu đã qua đời năm 1735, con trai là Mạc Thiên Tứ được sự giúp đỡ của
Huế đã đánh tan đội quân của Thommo.
Thommo chết năm 1747, con
trai ông lên ngôi, nhưng ngay lập tức bị người em trai đầy tham vọng giết chết.
Vua Xiêm là Taksin (Trương Quốc Anh) đòi người tiếm ngôi phải triều cống, nhưng
bị Nặc Tha khước từ. Quân Xiêm từ Korat tiến đến đánh Siêm Reap và Battambang,
xem đó là điều kiện để khôi phục nhà vua lưu vong, nhưng đến tháng 3 năm 1769
quân Xiêm đã bị đánh bại và rời khỏi Campuchia. Năm 1771, Xiêm lại đánh Hà Tiên
và chiếm được, sau đó tiến lên Phnompenh, đánh bật Angtong (Nặc Tha) và thay thế
bằng Angnon (Nặc Nộn). Đến năm 1772 với sự giúp đỡ của chúa Nguyễn, Angtong đã
đánh bại quân Xiêm và chiếm lại thủ đô. Angtong cũng không giữ được lâu, bị
quân Xiêm đánh bại và đưa người của mình lên (1773). Ngay sau đó Việt Nam đã
tiềm cách giành lại quyền lực bằng cách đưa Nặc Ton lên làm vua. Năm 1774, Xiêm
đưa Angeng (Nặc Vinh) lên ngôi ở Bangkok rồi đưa Angeng về Udong, nhân cơ hội
này Xiêm đã kiểm soát các tỉnh Campuchia ở phía tây như Battambang, Sisophon và
Korat. Xiêm đã lặng lẽ thôn tính các tỉnh này vào năm 1795. Có lẽ đây là cái
giá mà Angeng phải trả cho Xiêm để phục hồi ngôi báu của mình.
Ai Lao đã
không còn thống nhất mà đã phân thành tiểu quốc. Hai tiểu quốc mạnh nhất
Vienchan và Luangprabang là đối thủ của nhau. Mỗi quốc gia đều bị suy yếu
nghiêm trọng vì muốn tìm cách thôn tính lẫn nhau và nhờ sự giúp đỡ của các nước
Miến Điện, Xiêm và Việt Nam .
Sài Ông Huế
cho một đội quân đi đánh Xiêng Khoảng vì nước này không chịu nạp cống. Nhà vua
bỏ chạy và người em lên thay thế. Nhưng khi quân Vienchan rút đi thì nhà vua cũ
trở lại và chịu quy phục Vienchan.
Đối với các tỉnh
phía nam Lào thì Sài Ông Huế ít thành công hơn. Chậu Soi, người cai trị ở đó từ
năm 1713- 1747, đã có quan hệ tốt với Xiêm và Campuchia, nên Sài Ông Huế không
dám đụng đến.
Năm 1735, Sài
Ông Huế mất, con là Ông Long lên nối ngôi. Ông Long đã lớn tuổi và trị vì đất
nước một cách hòa bình, ổn định trong 22 năm. Ông không tham gia vào các cuộc
biến động ở Miến Điện, Xiêm, Luangprabang.
Năm 1755, quân
Vienchan đánh Xiêng Khoảng vì không nạp cống. Xiêng Khoảng được Việt Nam ủng
hộ và bắt hai bên phải đình chiến. ông Long rút quân về và mời vua Chompon và
Xiêng Khoảng đến Vienchan hội đàm. Chompon sợ bị nưu nên 3 năm sau mới đến và
Chompon bị bắt giam thật. Năm 1760, Việt Nam lại can thiệp buộc Ông Long phải
thả Chompon ra, Ông Long đã y bệnh. Ông Long qua đời, con là Ông Boun, ủng hộ
chính sách của Miến Điện, lúc đầu mọi việc đều tốt đẹp.
Năm 1774, vua
Xiêm là Taksin muốn khôi phục lại quyền lực ở Lào, đã đem quân đánh
Luangprabang do Miến Điện cai trị. Đáng ra Vienchan từ bỏ liên minh với Miến Điện,
ủng hộ Luangprabang, thì lại liên minh với Miến Điện chống lại Xiêm, nên bị
Xiêm đánh. Au vài tháng Vienchan bị bao vây, Vua Ông Boun phải trốn đi lưu
vong. Vienchan rơi vào tay Xiêm.
Năm 1782, Ông
Boun chính thức quy hàng Xiêm, sau đó ông được phép trở lại Vienchan và con
trai ông là Chậu Nan được trao quyền cai trị vương quốc với tư cách là chư hầu
của Xiêm.
Mối quan hệ
Xiêm- Việt là yếu tố chính làm cho Chân Lạp suy yếu gần như mất độc lập. Trong
hoàng tộc tranh giành ngôi vua giết hại lẫn nhau, nguyên nhân chính cũng xuất
phát từ quyền lợi của Việt- Xiêm. Ai Lao đất nước không thông, ghét sự tranh
giành giữa các tiểu quốc, đã đưa đến sự can thiệp của Miến- Việt- Thái, làm cho
đất nước bị suy yếu nghiêm trọng. Tất cả cũng xuất phát từ quyền lợi giữa hai
nước Việt- Xiêm.
2.3 Nhận xét mối quan hệ chính quyền Đàng Trong – Xiêm trong
các thế kỉ XVII- XVIII
Về quan hệ
Đàng Trong- Xiêm là mối quan hệ không giới hạn giữa hai quốc gia , liên quan đến
bối cảnh quốc tế trong khu vực Đông Nam Á, lục địa, địa bàn tranh chấp chủ yếu
là hai nước Ai Lao, Chân Lạp trên bán đảo Đông Dương, mối quan hệ này là một
trong những nguyên nhân dẩn đến sự suy yếu của Chân Lạp, Ai Lao và phải lệ thuộc
vào Đàng Trong- Xiêm.
Các chúa Nguyễn
đã khống chế được Xiêm trong việc tranh giành ảnh hưởng ở Chân Lạp, các vị vua
và hoàng thân Chân Lạp do chúa Nguyễn phong hoặc theo chúa Nguyễn, đã được bên
vực một cách đắc lực. Và hễ Xiêm có đem
quân vào Chân Lạp thì chúa Nguyễn cũng không ngần ngại đem quân đến đây để
tranh hùng. Mặc dù có sự tranh chấp về vấn đề Chân Lạp, các chúa Nguyễn và vua
Xiêm, triều A Du Đà cũng như Trịnh Quốc Anh vẫn giữ hòa hảo, thường cử xứ giả
qua lại, thư từ hoặc tang vật. Tài liệu
còn ghi chép lại mấy bức thư trao đổi giữa triều đình Nguyễn và Xiêm.
Qua đó, ta thấy các quan chúa Nguyễn vẫn giữ giọng đàn anh. Nhìn chung, vì lợi
ích quốc gia của mình, hai nước cũng khẳng định vị thế và vai trò của mình
trong khu vực, không một nước nào chịu thua nước nào.
C. KẾT LUẬN
Hiện nay bán đảo
Trung Ấn với 6 quốc gia. Việt Nam, Lào, Campuchia thuộc khu vực Đông Dương và Thái
Lan, Mianma, Malayxia nằm phía tây bán đảo Trung Ấn. Trước thế kỉ XVIII, ở đây
có đến hàng chục quốc gia với nhiều sắc tộc khác nhau. Với vị trí địa lý hoàn
toàn cách xa nhau hàng ngàn dặm, không ai ngờ rằng, xung đot dẫn đến chiến tranh trực tiếp giữa
hai nước Đại Việt và Xiêm mà trước đó buôn bán vẫn la mối quan hệ chính . Từ
khi chúa Nguyễn Hoàng vào tiếp quản Thuận Hóa, chúa Nguyễn đã dần dần mở rộng
lãnh thổ về phía Nam( còn gọi là công cuộc Nam tiến), thôn tính Chiêm Thành,
sát nhập Thủy Chân Lạp vào lãnh thổ để thư hùng chúa Trịnh Đàng Ngoài hình
thành cục diện Đàng Trong- Đàng Ngoài. Bên kia bán đảo Trung Ấn một thế lực
cũng đang hình thành từ hạ lưu sông Mê Nam , ban đầu là tiểu quốc Lavo, họ
tiến lên thượng nguồn chiếm Sukhothay, Lanna,..và các tiểu quốc bán đảo Malaya với tên mới là Ayuthaya, sau là này là Xiêm. Với
hai thế lực đang lên Đàng Trong và Xiêm (người Thái) và một cuộc đụng độ lịch sử
bắt đầu xuất hiện.
Cuộc đụng độ
này đã khiến các quốc gia nhỏ yếu vào vòng xoay thư hùng Đàng Trong – Xiêm, nó
làm cho chính trị, kinh tế trong khu vực thêm phần suy yếu dẫn đến mất độc lập
hay gần như lệ thuộc các quốc gia Ai Lao, Chân Lạp. Bản thân cuộc thư hùng của
Đàng Trong- Xiêm dẩn đến quốc gia suy yếu phần nào, khởi nghĩa trong nước diễn
ra dữ dội ở Đàng Trong, tạo thời cơ không nhỏ cho Miến Điện xâm lược Xiêm. Nhìn
chung thế kỉ XVII-XVIII, là một thế kỉ đầy biến động, các nước có quan hệ chòng
chéo lẫn nhau trong khu vực Đông Nam Á lục địa. Đồng thời, thể hiện rõ chế độ
phong kiến đang trên đà suy yếu, điển hình là Ai Lao, Chân Lạp,..dẫn đến sự xâm
nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây vào khu vực giàu có với vị trí chiến lược
bật nhất trên thế giới.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Huỳnh Lửa (chủ biên),
Lê Quang Minh, Văn Năm, Nguyễn Nghi, Đồ Hữu Nghiêm (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, NXB TP. Hồ Chí Minh.
[2]. Lam Giang Nguyễn
Quang Trứ, Vua Quang Trung, NXB thanh
niên.
[3]. Lương Ninh (Chủ
biên), Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh, Lịch
sử Đông Nam
Á, NXB Giáo dục.
[4]. Lưu Văn Lộc (2000), Ngoại giao Việt Nam , NXB Công an nhân dân.
[5]. Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam , NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[6]. Nguyễn Phan Quang, Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang
Trung, NXB tổn hợp TP. Hồ Chí Minh.
[7]. Nguyễn Văn Nam (biên
soạn), Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á
– Asean, NXB Hà Nội.
[8]. Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương loại chí.
[9]. Phạm Việt Trung, Nguyễn
Xuân Kì, Đỗ Văn Nhung, Lịch sử Campuchia
(1982), NXB Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp Hà Nội.
[10]. Trịnh Hoài Đức (bản
chép tay của viện Khảo cổ Sài Gon), Gia Định
thống chí.
[11]. Võ Kim Cương, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam ,
Viện Sử học (2007), Tập chí nghiên cứu lịch
sử.
[12]. Vũ Minh Quang (Chủ
biên) (2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam , NXB Thế Giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét