Chào mừng đến với Blogger !!!

30 tháng 5, 2012

LUẬN VĂN VỀ ĐẠO IXLAM



1. Hoàn cảnh ra đời của đạo Ixlam
1.1.   Bối cảnh xã hội
1.2.   Tình hình các tôn giáo
1.3.   Mohamec khởi nguồn sáng tạo đạo ixlam
2.   Nhũng yếu tố dẫn đến thành công
3.   Giáo nghĩa cơ bản
3.1.   Cương lĩnh, tín ngưỡng của các tín đồ hồi giáo
3.2.   Nghĩa vụ tôn giáo
3.3.   Thiện hành ( ybad)
4.   Kinh koran
4.1.   Lí lịch kinh koran
4.2.   Nộii dung
4.3.   Ý nghĩa

HỒI GIÁO  - IXLAM GIÁO

Kể từ vụ khủng bố kinh hoàng ngày 11/09 tại Mỹ đến nay. Hầu như không có ngày nào mà tin tức thời sự không nói về người Hồi Giáo. Ngày nào, tuần nào cũng có người ôm bom liều chết, hành động đó là đúng hay sai, một cái chết dũng cảm hay cái chết mù quáng? Thế giới Hồi Giáo có ảnh hưởng gì trong tình hình thế giới ngày nay. Đạo Hồi có nguồn gốc như thế nào? Ai là người sáng lập? đối tượng thờ của họ là ai? Tác giả xin nêu ngắn gọn một vài mốc dưới đây để giúp hiểu hơn về đạo Hồi Giáo.
Tại sao gọi là đạo Hồi?
Tên gọi đạo Hồi xuất phát từ việc một bộ tộc ở Trung Quốc đã theo đạo Ixlam. Bộ tộc đó tên là Hồi Hột. Kể từ đó người Trung Quốc và một số quốc gia gọi đạo mà người Hồi Hột theo là đạo Hồi. Như vậy thì gọi đạo Hồi là ko đúng, phải gọi là đạo Ixlam mới chính xác.

Sơ nét về tiên tru Mohammed (Môhamet)
Mohamed là người sáng lập ra đạo Ixlam, ông sinh năm 570 trong một gia đình quý tộc sa sút ở Mecca , bán đảo A rập
Mohamed xuất thân trong gia tộc Casimu ở Mecca , tuy gia tộc có quyền thế nhất định nhưng chỉ ở vào địa vị thứ đẳng.
Ông nội của Môhamet là Abdah Muttalib, là người quản lý thánh điện Mecca rất có uy tín.
Cha của ông là Abdubla là một thương nhân nghèo. Trước khi Môhamed ra đời thì cha ông đã chết trên dọc đường buôn bán.
Lên sáu tuổi thì mất mẹ, ông được ông nội nuôi dưỡng, hai năm sau ông nội cũng qua đời. Môhamed được người bác là Abu Talib đem về nuôi.
Trong thời gian sống với bác mình, Môhamed từng phải đi chăn gia súc, tham gia vào đội quân buôn bán ở các vùng như Xyri…
Đặc biệt là đến khi 25 tuổi, Môhamed làm thuê cho một bà góa giàu có ở Mecca là Khadidja, ông thay bà đi buôn bán ở Xyri. Khi trở về được bà yêu quý và lấy làm chồng. Từ đó cuộc sống của ông khấm khá lên.
Bối cảnh xã hội lúc bấy giờ (Bán đảo A rập)
Xã hội A rập lúc này có những bước ngoặt lớn, trình độ phát triển trên bán đảo không đồng đều:
Miền Nam bán đảo có điều kiện tự nhiên và khí hậu rất thích nghi với sản xuất nông nghiệp.
Miền Bắc đã xuất hiện một số tiểu vương quốc nhưng sau đó đã trở thành phiên thuộc của đế quốc Bigiăngtin và Batư.
Miền Trung trình độ phát triển kém xa Miền Nam và Miền Bắc, kinh tế chăn nuôi du mục là cơ sở.
Trước khi Ixlam ra đời, tín ngưỡng trên bán đảo là tín ngưỡng đa thần , thông qua nghi lễ để cúng tế các thần bảo hộ của bộ lạc (Kabah).
Bên cạnh đó thì đạo Cơ Đốc và Do Thái đã sớm truyền vào bán đảo A rập.
Trước khi đạo Ixlam ra đời, trên bán đảo A rập đã hình thành  phái Hanif có khuynh hướng thờ một thần, phản đối sùng bái thờ thần tượng, nhưng ko có giáo lý và nghi thức hoàn chỉnh, chỉ chú trọng tu luyện cá nhân, sống theo chủ nghĩa cấm dục. Sự tồn tại của nó đã gián tiếp thúc đẩy sự ra đời của Ixlam giáo. 
Môhamet và quá trình lập đạo
Tương truyền khi ông bốn mươi tuổi (năm 610) , Môhamet đã một mình vào trong hang nhỏ ở núi Xira ngoại thành Mecca tu luyện và trầm ngâm suy tưởng. Trong một đêm thánh Allah đã cử Thiên Sứ Yibrail truyền đạt thần dụ và lần đầu “khải thị” cho ông về kinh Côran.
Ông trở thành “Thánh Thụ Mệnh”. Từ đó về sau ông xưng mình là tiếp thụ “sứ mệnh” của “chân chủ” và bắt đầu truyền đạo Ixlam (Ixlam dịch từ tiếng A rập tức là “thuận tòng” tức là thuận theo, nghe theo ý chỉ của Chân chủ).
Ban đầu ông bí mật truyền đạo, chỉ có bạn bè thân thích trở thành những tín đồ, nhưng về sau ông đã chuyển qua giảng đạo công khai.
Ông khuyên mọi người từ bỏ sùng bái đa thần, thờ hình tượng, đồng thời cũng từ bỏ thuyết Tam Vị Nhất Thể của Cơ Đốc Giáo. Yêu cầu mọi người thờ Thánh Allah độc nhất, cũng không ngừng tuyên giảng về ngày phán xét cuối cùng và sống lại sau khi chết. Điểm này Môhamed mâu thuẫn vì thực tế Thánh Allah mà ông thờ cũng chính là Thiên Chúa của Đạo Cơ Đốc và Yavê hay còn gọi là Yavê Thiên Chúa của đạo Do Thái. Vì lý do này mà một số nhà tôn giáo học cho rằng ba tôn giáo trên cùng chung một Chủ Thờ.
Hoạt động sáng lập đạo của Môhamed gặp phải sự phản ứng của các giai tầng trong xã hội. Tuy giáo lý nhất thần của đạo ko làm ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi của tầng lớp quý tộc, nhưng trước mắt lại đe dọa tới đặc quyền và thu nhật kinh tế của quý tộc Corai nắm quản Kabah. Họ không chấp nhận một người xuất thân và quyền thế không lấy làm hiển hách như Mohamed lại đứng đầu trong tôn giáo. Do vậy đã có những đợt truy kích  và bức phạt tới Mohamed và Muslim.
Trong hoàn cảnh khó khắn như vậy ở Mecca , các tín đồ chủ yếu là dân nghèo và nô lệ. Đặc biệt là vào năm 619, sau khi vợ và bác ông lần lượt qua đời đã làm cho ông mất đi chỗ dựa, cộng thêm với sự bức hại của tầng lớp quý tộc ở Mecca .
Năm 622 các muslim và Môhamed đã vượt ra được khỏi sự bức hại của quý tộc Mecca đến được Yathrid (Sau đổi tên là Madinah: nghĩa là “vùng đất tiên tri” ).
Đến Madinah: dân cư ở đây chủ yếu thuộc năm bộ lạc (hai bộ lạc người A rập và ba Do Thái ) trong nội bộ vẫn ko ngừng tranh chấp lẫn nhau. Họ đều hy vọng nhanh chóng kết thúc chiến tranh  nhưng lại thiếu một người đủ tài để làm trung gian giao hảo giữa họ.
Họ đã thỉnh cầu Môhamed làm trọng tài hòa giải giữa các bộ tộc.
Sau khi Môhamed đứng vững ở Madinah ông đã mở rộng cuộc đấu tranh trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự và tôn giáo.
Trong thời gian này  Mohamed đã ra nhiều quy định để chỉnh đốn đội ngũ Muslim (muslim có nghĩa là anh em)
Ông đề xuất hàng loạt chủ trương cải cách xã hội, pháp luật và dần dần trở thành một hệ thống giáo quy của đạo.
Để hòa hoãn mâu thuẫn xã hội ông đã đề xuất chủ trương giảm gánh nặng cho người nô lệ, khích lệ phóng thích nô lệ, cấm tăng lợi tức hoàng hóa, cứu tế và giúp đỡ người già yếu tàn tật, cô quả, hiếu kính với cha mẹ.
Và để vững mạnh hơn Mohamed đã tổ chức võ trang muslim ở Madina, với khẩu hiệu “Chiến đấu vì Đạo của Allah” hơn thế còn cho phép những người chết trận được trực tiếp bước len Thiên Đàng, bên cạnh đó ông còn tiến hành các cuộc đấu tranh với quý tộc Mecca.
Đồng thời tiến hành đả kích các tín đồ Do Thái, tiêu diệt những thế lực  xung quanh.
Sau cuộc chiến thanh trừ các thế lực Do Thái , thực lực của Muslim lớn mạnh hơn bao giờ hết. Năm 628 ông đích thân thống lĩnh hơn 1000 muslim đi tới Mecca triều kiến Kabah.
Sau khi tới thì hai bên đã ký hòa ước Hotapia, đồng ý ngừng chiến trong 10 năm. Trong thời gian này Mohamed đã tập trung về mọi phương diện như: phái sứ giả đến các bộ lạc khác để truyền đạo, chinh phạt các bộ lạc của người Do Thái.
Năm 630 , khi một bộ lạc liên minh với Mohamed đến cầu cứu vì bị một bộ lạc khác liên minh với người Corai tập kích. Môhamed đã nắm thời cơ này, với lý do là người Corai đã vi phạm hòa ước Hotapia và đã tiến công Mecca . Cuối cùng người Corai đã bị khuất phục , thế lực Mecca nhanh chóng tan rã.
Sau khi tiến vào Mecca . Môhamed hô to “Chân lý đã tới đây rồi, hư vọng đã bị tiêu diệt, hư vọng là quả thật dễ dàng bị tiêu diệt” (Kinh Koran 17:81). Phá bỏ tất cả các pho tượng trong Kabah chỉ để lại một tảng đá “đen” để làm thánh vật cho muslim  triều bái. Môhamed đã khoan hồng tha chết cho đại đa số kẻ thù  ngày trước của ông sau khi họ đã tôn thờ đạo Ixlam.
Sau hơn 10 năm cư trú tại Mecca , ông lại trở về Madina và rất nhiều bộ lạc quy thuận ông.
Mùa xuân năm 632, Mohamed chỉ huy 10 vạn quân tới Mecca, lãnh đạo cuộc triều bái đã được cải cách, phát biểu diễn thuyết, tuyên bố đã hoàn thành đạo Ixlam, lịch sử gọi là “Từ Triều”. Các nghi thức mà ông cử hành sau này đã trở thành khuôn mẫu cho các Muslim.
Sau khi lễ bái trở về Madina, không lâu sau ông mắc bệnh. Ngày 08/06/632 , ông tạ thế, thọ 63 tuổi, an táng tại Madina.

TÌM HIỂU KINH KORAN.

Đối với đại khối các dân tộc Ả Rập, nguyên bản bằng ngôn ngữ Arabic của kinh Koran là một kiệt tác phẩm thi văn. Kinh Koran không hẳn là một cuốn thơ trường thiên nhưng là một tác phẩm văn xuôi có vần có điệu (poetic rhymed prose) rất thích hợp với khẩu vị văn chương của những người du mục ở nơi hoang dã. Chính vì vậy mà kinh Koran đã mau chóng được truyền bá qua truyền khẩu rộng khắp bán đảo Ả Rập (lớn gấp 8 lần Việt Nam).

Về phương diện tâm linh, kinh Koran là sự nối kết những dòng tư tưởng về một tôn giáo độc thần khởi đầu từ tổ phụ Abraham, qua Mai-sen (Moses) qua Jesus đến thiên sứ cuối cùng là Muhammad. Từ 2000 năm trước Công Nguyên, những người Ả Rập đã biết đến Thiên Chúa của Abraham mà họ gọi là Allah. Điều đó có nghĩa là họ đã thờ Allah từ 27 thế kỷ trước khi có Muhammad và đạo Hồi. Qua nhiều thế kỷ tiếp xúc với văn hóa Do Thái, người Ả Rập đã rất quen thuộc với các nhân vật của kinh Thánh Cựu Ước. Từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7, người Ả Rập tiếp xúc với những người Ki Tô Giáo thuộc đế quốc Byzantine rộng lớn và từ những nước lân bang như Syria, Ai Cập và Ethiopia... Mặc dù rất ít người Ả Rập lúc đó theo Ki Tô Giáo nhưng cũng không cảm thấy xa lạ với Jesus và Gioan Baotixita.

Đọc kinh Koran, chúng ta sẽ thấy những nhân vật quan trọng của hai đạo Do Thái và Ki Tô được Muhammad thường xuyên nhắc tới. Kinh Koran là một tổng hợp những kiến thức tôn giáo đã tiềm tàng sẵn trong đại khối các dân tộc Ả Rập. Sự tổng hợp đó được gọi là Islam, có nghĩa là sự tuân phục tuyệt đối vào Thiên Chúa. (Islam means the absolute submission to God). Người Trung Quốc phiên âm "Islam" thành "Hui" (Hồi) và gọi đạo này là "Hui-jao" tức Hồi Giáo. Kinh Koran trở thành Thánh Kinh (The Holy Book) hoặc sách Mặc Khải (Book of Revelation) của Hồi Giáo.

Đáng lẽ ra đạo Do Thái, đạo Ki Tô và đạo Hồi đều cùng thờ chung một Chúa thì phải có chung một Kinh Thánh duy nhất mới phải. Trong thực tế, mỗi đạo đều có Thánh Kinh riêng và đạo nào cũng tự cho Thánh Kinh của mình mới là chân lý tuyệt đối. Cả 3 đạo đều tự cho Thánh Kinh của mình là những "sách Mặc Khải".

- Kinh Torah (Cựu Ước) được Thiên Chúa mặc khải cho Thánh Mai-sen khoảng năm 1250 TCN trên núi Sinai.

- Các sách Tân Ước/Phúc Âm là các sách Thiên Chúa mặc khải cho Thánh Phao Lô và bốn vị Thánh Sử: Matthew, Mark, Luke và John trong thế kỷ 1.

Kinh Koran là sách Thiên Chúa mặc khải cho tiên tri Muhammad qua trung gian của thiên thần Gabriel trong 22 năm liên tục (610-632).

Trước khi có kinh Koran, người Ả Rập có mặc cảm là một chủng tộc thiếu văn hóa và họ tỏ ra trọng nể người Do Thái và Ki Tô. Cho nên, trong ngôn ngữ Ả Rập có danh từ "Dhimmi" để gọi chung cho Do Thái và Ki Tô. Danh từ này có nghĩa là "những người có sách Thánh Kinh" (People of the Books).

Sự xuất hiện kinh Koran vào đầu thế kỷ 7 đã đem lại cho các dân tộc Ả Rập một niềm tự hào vì từ nay họ có Thánh Kinh viết bằng tiếng Ả Rập. Họ đón nhận đạo Hồi là đạo của dân tộc chứ không phải là đạo ngoại lai. Kinh Koran và đạo Hồi là hai yếu tố quan trọng đem lại sự hứng khởi tinh thần và là chất keo văn hóa nối kết các bộ lạc Ả Rập lại với nhau và biến đại khối Ả Rập thành một lực lượng chính trị và quân sự hùng mạnh trong nhiều thế kỷ.

I . Công việc biên soạn Kinh Koran.-

Khác với Cựu Ước được viết theo lối văn lịch sử kinh Koran được viết theo lối văn kể chuyện thông thường (oral recitation). Tổng cộng có 114 chương (suras/chapters) gồm 6616 câu thơ (verses).

Sự phân phối các câu thơ trong các chương không đều nhau. Chương dài nhất có 287 câu thơ, chương ngắn nhất chỉ có 3 câu mà thôi. Mỗi câu thơ cũng dài ngắn bất thường: Câu thơ dài nhất chiếm tới nửa trang sách, câu ngắn nhất chỉ có 2 chữ! Phần lớn kinh Koran (85 chương) được Muhammad viết tại Mecca, còn lại 29 chương viết tại Medina. Muhammad viết Koran trên lá cọ khô và trên những tấm da súc vật phơi khô.

Sau khi Muhammad chết vào năm 632, phần lớn các bản chép tay nói trên bị thất lạc hoặc phân tán rải rác nhiều nơi. Mọi người cảm thấy nguy cơ có thể làm cho cuốn Thánh Kinh của họ bị tiêu vong nếu không gấp rút sưu tầm và thu hồi các nguyên bản của Muhammad. Sau đó, cần phải có người tài giỏi biên tập tất cả các nguyên bản thành một cuốn Thánh Kinh duy nhất.

Để đáp ứng nhu cầu của các tín đồ Hồi Giáo, người có thẩm quyền đầu tiên đứng ra lo việc này là Abu Bakr (632-634). Ông vừa là cha vợ vừa là người đầu tiên kế vị Muhammad (the first caliph) và cũng là vị vua Hồi Giáo đầu tiên thống nhất bán đảo Ả Rập để biến nơi này thành điểm xuất phát bành trướng Hồi Giáo ra khắp thế giới. Abu Bakr giao cho một thanh niên 22 tuổi tên Zayd đi sưu tầm và gom góp các thủ bản của kinh Koran do Muhammad viết tập trung tại Medina.

Công việc đang được tiến hành tốt đẹp thì Abu Bakr qua đời. Các tài liệu do Zayd thu thập đều được chuyển giao cho vị vua Hồi Giáo kế nhiệm là Umar Khattab. Vị vua này là một nhà quân sự đại tài, chỉ trong 10 năm (634-644) đã mở rộng lãnh thổ của Hồi Giáo ra toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi. Vì quá mải mê lo việc quân sự nên vị vua này đã bỏ quên công việc biên tập kinh Koran. Hậu quả nghiêm trọng là ở những địa phương khác nhau người ta truyền miệng những câu thơ của Kinh Koran khác nhau và sự tranh cãi về tính trung thực của kinh Koran càng ngày càng trở nên gay gắt và hổn loạn. Các cuộc tranh cãi này đã dẫn đến cuộc "thánh chiến" giữa hai phe Hồi Giáo tại Nehavand, gây cảnh thịt rơi máu đổ trong 7 năm (650-657).
Vị vua kế nghiệp thứ ba (the third caliph) là Uthman (644-657) chú tâm đến việc phục hồi kinh Koran. Năm 652, Uthman giao cho Zayd và 3 người phụ tá nhiệm vụ biên tập các bản thảo của Muhammad thu hồi được thành một cuốn sách duy nhất. Sau 5 năm, nhóm biên tập của Zayd hoàn thành nhiệm vụ. Năm 657, tức 25 năm sau khi Muhammad qua đời, vua Uthman công bố bản kinh Koran do Zayd biên tập và gọi nó là "MUSHAF" có nghĩa là "Kinh Thánh chính thức của mọi người Hồi Giáo" (The Official Codex for all Muslims).

Ban biên tập của Zayd chép cuốn Kinh Thánh này thành 4 bản giống nhau để lưu trữ tại 4 thành phố: Medina, Basra và Kufa (Iraq) và tại Damacus (Syria).

Sau đó, Uthman ra lệnh tiêu hủy toàn bộ các bản viết tay của Muhammad trên lá cọ và da thú vật. Công việc này tương tự như hành động của Hoàng Đế La Mã Constantine ra lệnh thiêu hủy toàn bộ các sách thánh kinh và các di tích thật của Jesus sau Công Đồng Nicaea năm 325.

Do sự thiêu hủy các bản viết tay của Muhammad theo lệnh của vua Uthman đã không được thi hành triệt để nên ngày nay người ta đã thu thập được 5 bản chính viết trên da súc vật:-2 bản hiện lưu trữ tại thư viện Taskhent ở Uzebekistan.-1 bản lưu trữ tại thư viện Tpokabi Thổ Nhĩ Kỳ.-1 bản tại bảo tàng viện London.-1 bản mới tìm thấy tại Yemen năm 1979. So sánh các bản chính nói trên với Kinh Koran do Uthman công bố năm 657, người ta đã phát giác có nhiều sự khác biệt. Các học giả nghiên cứu về Hồi Giáo xác nhận: Việc Uthman ra lệnh tiêu hủy các bản viết tay của Muhammad là một tổn thất hết sức nặng nề cho Hồi Giáo. Năm bản viết tay trên da súc vật mà ngành khảo cổ đã thu thập được cũng đủ xác minh một sự thật đáng buồn: Zayd và ban biên tập của ông ta có thể đã không thu thập đầy đủ các thủ bản của Muhammad, khi chép lại có thể đã bỏ sót một số câu thơ của kinh Koran và cuối cùng không có gì bảo đảm là Zayd và ban biên tập đã không tự ý sửa đổi Kinh Koran theo ý riêng của mình.Tuy nhiên, hầu hết các tín đồ Hồi Giáo hiện nay đã không nêu lên những vấn đề nói trên. Họ vẫn tin rằng bản kinh Koran bằng tiếng Arabic do vua Uthman công bố năm 657 là kinh Koran do Thiên Chúa Allah mặc khải cho Muhammad.

Các mô hình sinh hoạt của các tín đồ Hồi Giáo đã được hình thành do hai yếu tố chính: Trước hết, do các tín lý giáo điều đã được vạch ra trong kinh Koran và sau đó là do các phong tục tập quán trong nếp sống du mục lâu đời của người Ả Rập. Người ta có thể liệt kê khoảng 15 mô hình sinh hoạt như sau:
1. Vai trò ưu thắng của nam giới trong xã hội.
Trong xã hội Hồi Giáo, đàn ông luôn luôn được coi là chủ gia đình và là người chính yếu kiếm tiền nuôi vợ con và mọi thân nhân lệ thuộc (the main wage-earner). Tuy nhiên, mức độ ưu thắng của đàn ông cũng còn tùy thuộc vào phong tục tập quán của mỗi quốc gia vì ngày nay Hồi Giáo đã trải rộng khắp nơi trên thế giới. Tại Afganistan, quyền ưu thắng của đàn ông gần như tuyệt đối vì luật pháp cho phép đàn ông đánh đập đàn bà công khai trên đường phố trong khi tại Thổ Nhĩ Kỳ quyền bình đẳng nam nữ đã được luật pháp tôn trọng.
2. Ngôn ngữ Arabic và các chuyển ngữ chính thức trong đạo Hồi.
Các kinh sách quan trọng nhất của đạo Hồi là Kinh Thánh Koran, các sách giáo lý Sunna, Hadiths và sách luật Sharia đều được viết bằng tiếng Arabic. Do đó, ngôn ngữ Arabic được coi là ngôn ngữ chính của đạo Hồi. Các học giả nghiên cứu đạo Hồi và các sinh viên thần học Hồi Giáo (thuộc mọi chủng tộc) đều phải học tiếng Arabic để nghiên cứu các kinh sách nguyên bản. Còn lại tuyệt đại đa số các tín đồ Hồi Giáo đều không biết tiếng Arabic nên phải dùng các chuyển ngữ. Trong thế giới Hồi Giáo có 4 nhóm chuyển ngữ:
1) Tiếng URDU là chuyển ngữ chung cho các tín đồ Hồi Giáo thuộc các nước Ấn Độ, BangladeshPakistan.
2) Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là chuyển ngữ cho các nước Trung Á như Kazakstan, Uzebeikistan, Afganistan...
3) Tiếng Farsi là chuyển ngữ chung cho các nước Cận Đông như Iran, Iraq, Syria...
4) Các nước khác dùng ngôn ngữ riêng của mình.
3. Ngày lễ chính trong tuần.-
Ki Tô Giáo chọn ngày Chủ Nhật làm ngày lễ chính trong tuần, Do Thái Giáo chọn ngày thứ Bảy (Sabath) trong khi Hồi Giáo chọn ngày lễ chính trong tuần là ngày thứ Sáu. Cứ đến ngày thứ Sáu, các đền thờ Hồi Giáo đông nghẹt người. Tại thủ đô Ai Cập có nhiều đền thờ không đủ sức chứa số lượng tín đồ quá đông đến nỗi cảnh sát phải chặn xe cộ trên đường phố, trải chiếu trên lề đường và trên cả đường phố để các tín đồ có chỗ đứng xếp hàng cầu nguyện. Sau khi cuộc cầu nguyện chấm dứt, cảnh sát ra hiệu cho những dòng xe cộ bắt đầu chuyển bánh đi tiếp!
4. Đền thờ Hồi Giáo.
Đền thờ Hồi Giáo không phải là nơi để các tu sĩ hành lễ như nhà thờ Công Giáo hoặc các chùa Phật Giáo. Đền thờ Hồi Giáo chỉ là nơi họp mặt của các tín đồ để cầu nguyện tập thể mà thôi. Hồi Giáo không có tu sĩ vì họ quan niệm ai cũng có thể nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa nên không cần qua trung gian của bất cứ người nào khác. Hơn nữa, khác với Công Giáo, Hồi Giáo không có một "phép bí tích" nào nên không cần một thứ chức thánh nào (linh mục, giám mục, hồng y...). Hồi Giáo có nhiều thánh địa nhưng không có giáo đô nên không cần có giáo hoàng.
Hồi Giáo tối kỵ việc thờ ảnh tượng của Chúa và các Thánh nên bên trong và bên ngoài đền thờ luôn luôn trống trơn, không có một hình tượng nào cả. Đền thờ Hồi Giáo cũng tương tự như đền thờ Do Thái Giáo (Sinagogue), cả hai đều được định nghĩa là nơi họp mặt với nhiều dụng đích. (Mosque: Meeting place for general use of the community). Ngoài việc được dùng làm nơi hội họp, đền thờ còn có thể được dùng làm trường học, bệnh viện hoặc nơi tạm trú cho những người tỵ nạn hoặc nạn nhân trong các vụ thiên tai v.v... Đền thờ Hồi Giáo Al-Azhar ở Cairo, thủ đô Ai Cập, từng nổi tiếng là một đền thờ đồ sộ và tráng lệ đã trở thành trường Đại Học đầu tiên của nhân loại vào cuối thế kỷ 10. Tới nay đã trên một ngàn năm, trường đại học này vẫn còn đang tiếp tục hoạt động.
Tất cả các đền thờ Hồi Giáo trên khắp thế giới dù lớn hay nhỏ và dù ở bất cứ nơi nào cũng phải hội đủ các tiêu chuẩn sau đây:
a. Phải có chỗ rửa mặt và tay chân sạch sẽ trước khi cầu nguyện.
b. Bên trong nhà thờ phải trống trải để các tín đồ có chỗ xếp hàng cầu nguyện.
c. Mọi đền thờ phải có một cái hốc khoét sâu vào tường (a niche) để định hướng cho mọi người quay mặt về thánh địa Mecca khi cầu nguyện, vì tại đó có nhà của Chúa, tức đền thờ Ka'ba (House of God).
d. Mỗi nhà thờ phải có một bục cao để IMAM giảng kinh vào ngày thứ Sáu hàng tuần.
e. Không được trang trí tường bằng tranh ảnh. Chỉ có thể trang trí bằng các hình kỷ hà học hoặc bằng nghệ thuật viết chữ Ả Rập (Calligraphy) hoặc bằng các hình vẽ nghệ thuật của hình học (geometrical decorations).
5. Huy Hiệu Hồi Giáo.
-Thường thường, mỗi tôn giáo đều có một huy hiệu riêng để làm biểu tượng cho tôn giáo của mình. Chẳng hạn như hình ngôi sao 6 cánh (ngôi sao Đavít) là biểu tượng của đạo Ki Tô, hình con mắt là biểu tượng của đạo Cao Đài v.v
Huy hiệu của đạo Hồi là một vành trăng lưỡi liềm, bên trong có hình ngôi sao năm cánh. Tiếng Ả Rập gọi huy hiệu này là HILAL. ?
Vành trăng lưỡi liềm tượng trưng cho Âm Lịch Hồi Giáo. Ngôi sao là biểu tượng cho sự tuân theo ý Chúa vì kinh Koran đã dạy rằng: "Thiên Chúa đã dựng nên các vì sao để hướng dẫn con người tới cùng đích" (Allah created the stars to guide people to destination).Mecca – 1850
6. Muezzin.
Mỗi một đền thờ Hồi Giáo có một người được chỉ định làm nhiệm vụ leo lên tháp cao mỗi ngày 5 lần để kêu gọi các tín đồ cầu nguyện. Tiếng Ả Rập gọi người đó là Muezzin. Ngày nay, người ta mắc loa phóng thanh trên tháp cao để kêu gọi tín đồ chứ không dùng Muezzin như xưa. Tuy nhiên, lời kêu gọi từ xưa đến nay không thay đổi: "Thiên Chúa là đấng vĩ đại vô cùng. Tôi tin không có Thiên Chúa nào khác ngoài Allah. Tôi tin Muhammad là thiên sứ của Ngài. Hãy đến cầu nguyện, hãy đến để nhận ơn cứu chuộc. Thiên Chúa Allah vĩ đại vô cùng. Không có Thiên Chúa nào ngoài Allah" (God is most great. I bear the witness that there is no God but Allah.Hasten to prayer. Hasten to salvation. Allah is most great, there is no God but Allah).
7. Lời cầu nguyện thần chú (The Invocation)
Tiếng Ả Rập BASIMALA có nghĩa là lời cầu nguyện đặc biệt có tích cách tiên quyết và bắt buộc đối với mọi tín đồ Hồi Giáo trong suốt cuộc đời. Có thể coi đây là một câu "thần chú" mà các tín đồ Hồi Giáo thường tự động buột miệng cầu nguyện mỗi khi bắt đầu làm một công việc gì, chẳng hạn như lúc mở đầu cuộc họp, khi leo lên xe bus, lúc bắt đầu lớp học, trước mỗi bữa ăn hay trước khi đi ngủ... Trong tất cả các sách của các tác giả Hồi Giáo, câu thần chú này phải được in ở trang đầu của cuốn sách. Câu thần chú như sau: "Nhân danh Thiên Chúa đầy lòng thương xót và nhân từ vô cùng. Chúng con ngợi khen Chúa là chúa tể vũ trụ và sự bình an. Chúng con dâng lời cầu nguyện Chúa cùng với đấng tiên tri và thiên sứ cuối cùng của Chúa". (In the name of God, the Compassionate, the Merciful. Praise be to Allah, Lord of the Universe and Peace. Prayers be upon his final prophet and messenger).
8. Lịch Hồi Giáo.-
Do Thái và các dân tộc Ả Rập từ ngàn xưa vẫn quen dùng Âm Lịch. Tuy nhiên, người Ả Rập Hồi Giáo chính thức mở đầu một kỷ nguyên mới của Âm Lịch Hồi Giáo từ năm 622 (sau Công Nguyên) là năm Muhammad và cộng đồng Hồi Giáo từ Mecca di cư về ốc đảo Medina. Mỗi một vòng của mặt trăng xoay quanh trái đất là một tháng, 12 vòng là một năm, tổng cộng 354 ngày. So với năm dương lịch, mỗi năm của Âm Lịch Hồi Giáo thiếu hụt 11 ngày (365-354 = 11 ngày). Điều khác biệt của Âm lịch Hồi Giáo là không có tháng nhuận (4 năm một lần) như Âm Lịch của người Trung Hoa. Do đó, sự thiếu hụt giữa Lịch Hồi Giáo và Dương lịch cứ bị tích lũy mỗi ngày một lớn. Đến nay, sự sai biệt giữa Âm Lịch Hồi Giáo và Dương Lịch là 42 năm.
Lấy thí dụ điển hình: Năm 2000 Dương Lịch là năm 1420 của Âm Lịch Hồi Giáo. Năm bắt đầu kỷ nguyên Âm Lịch Hồi Giáo là năm 622 AD. Nếu tính theo Dương Lịch thì năm 2000 phải là năm 1378 của Hồi Giáo, nhưng vì năm Âm Lịch Hồi Giáo chỉ có 354 ngày nên số năm của Âm Lịch Hồi Giáo đã bị dư ra 42 năm (1420-1378=42).
9. Hôn lễ Hồi Giáo.
Tại các vùng thôn quê Hồi Giáo, việc hôn nhân của con cái hầu như đều do cha mẹ quyết định. Tại thành thị và trong giới học thức, các thanh niên nam nữ thường hẹn hò nhau một cách kín đáo tại nhà riêng. Nói chung, tại các nước Hồi Giáo hầu như không có cảnh trai gái tình tự công khai trên đường phố hay tại công viên. Tuyệt đại các tín đồ Hồi Giáo quan niệm hôn nhân là sự liên kết giữa hai gia đình hơn là sự kết hợp của hai cá nhân. Do đó, lễ cưới được coi là một sinh hoạt đặc biệt của cộng đồng (làng, bộ lạc...) nên mọi người trong cộng đồng đều được mời đến nhà chú rễ ăn một bữa tiệc vui. Trong tiệc cưới, nam nữ phải ngồi riêng.
Trong đạo Công Giáo, hôn lễ được coi là một phép bí tích nên hôn lễ phải được cử hành tại nhà thờ và do một linh mục chủ lễ. Trái lại, đạo Hồi không có phép bí tích nên không có một nghi lễ tôn giáo nào dành cho hôn nhân. Các lễ cưới đều diễn ra tại nhà riêng một cách đơn giản trong im lặng.
10. Tang lễ Hồi Giáo.
Trong đạo Hồi, không có một nghi lễ tôn giáo nào cho việc mai táng người chết. Các xác chết không được đưa đến nhà thờ, chỉ cần người nhà tắm rửa xác chết sạch sẽ, bọc xác bằng vải trắng, cho vào hòm đem chôn. Luật Hồi Giáo cấm thiêu xác chết vì họ tin rằng xác loài người sẽ sống lại trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng. Thân nhân người chết phải tự chế cảm xúc, không được gào thét quá đáng vì làm như vậy là không tin vào lòng nhân từ vô cùng của Thiên Chúa và không tin xác loài người sẽ sống lại. Sự chết chỉ là tạm thời, sự sống mới là vĩnh cửu!Khi đặt người chết xuống huyệt, phải quay đầu người chết về hướng Thánh địa Mecca.
11. Chuỗi hạt Subha.
Allah là Thiên Chúa Duy Nhất (Allah is The Unity God) nhưng Muhammad đã ca ngợi Allah bằng 99 tên khác nhau trong kinh Koran: Đấng Hằng Sống (The Everliving) Đấng Tự Hữu (The Self-Subisting), Đấng Tối Cao (The Most High) Đấng Thông Biết Mọi Sự (The All-Knowing), Đấng Toàn Năng (The Almighty), Đấng Tạo Hóa (The Creator), Đấng Lòng Lành Vô Cùng (The Merciful, The Compassionate) Đấng Nhìn Thấy Mọi Sự (All-Seeing Deity) Đấng Biết Mọi Sự Hữu Hình và Vô Hình (The Knower of The Seen and Unseen) v.v...
Các tín đồ Hồi Giáo phải học thuộc 99 tên của Thiên Chúa. Để giúp tín đồ đếm đủ 99 tên này, giáo phái Sufis đã sáng chế ra chuỗi hạt SUBHA vào thế kỷ 14. Chuỗi hạt này tương tự như chuỗi hạt Mân Côi (Rosary Beads) của Công Giáo. Chuỗi hạt của Công Giáo có 50 hạt, chuỗi hạt của Subha chỉ có 33 hạt mà thôi. Tuy nhiên, mỗi khi lần hạt Bubha, các tín đồ phải lần hạt liên tiếp 3 lần cho đủ 99 tên của Thiên Chúa (33x3=99).
12. Chế độ ăn uống.
Chế độ ăn uống của các tín đồ Hồi Giáo đã được qui định một cách chặt chẽ trong kinh Koran:
- Tuyệt đối cấm uống rượu, dù là rượu nhẹ. Ngay cả trong trường hợp bị bệnh cũng không được uống thuốc có pha rượu. Do luật cấm nghiêm ngặt này nên hầu hết các tiệm bán rượu của người ngoại quốc trong các nước Hồi Giáo thường bị các tín đồ cực đoan đốt phá bình địa.
- Tuyệt đối cấm ăn thịt heo.
- Cấm ăn huyết của mọi sinh vật.
- Cấm ăn thịt các súc vật đã chết một cách tự nhiên.
- Các tín đồ chỉ được ăn thịt được sản xuất theo đúng luật Hồi Giáo gọi là HALAL MEAT: Người giết súc vật phải giết nó khi còn đang sống và khi giết nó phải cầu nguyện nhân danh Chúa. Sau khi xẻ thịt súc vật phải rửa thịt cho sạch máu.Tại Mỹ và Canada, các tiệm bán thịt theo luật Hồi Giáo đều có treo bảng với hàng chữ HALAL Meat.
13. Đặt tên cho con.
Các tín đồ Hồi Giáo trên khắp thế giới thường đặt tên con bằng tên của giáo chủ Muhammad, các vị vua (Caliphs) kế vị Muhammad như Abu, Umar, Uthman và Ali, các cháu ngoại của Muhammad là Hasan và Husayn hoặc bằng các tên ghép với tên Allah của Thiên Chúa như: Abdallah (tôi tớ của Thiên Chúa/Servant of God) Abdul-Rahman (Tôi tớ của Đấng Nhân Lành vô cùng/Servant of the All-Merciful). Các cô con gái thường được cha mẹ đặt theo tên các bà vợ nổi tiếng của Muhammad như Khadija, Aisha hoặc tên con gái của Muhammad là Fatima.
14. Thiên đàng nhục dục của kinh Kroan và tinh thần tử đạo của thanh niên Hồi Giáo
Không có một tôn giáo nào mô tả Thiên Đàng là một khu vườn với những lạc thú vật chất và nhất là những lạc thú nhục dục tuyệt đỉnh với những cô gái trinh đẹp tuyệt vời và trẻ mãi không già... như trong kinh Koran. Người ta gọi Thiên Đàng của Hồi Giáo là Thiên Đàng của lạc thú (The Paradise of Delights) hoặc Thiên Đàng của Kinh Koran (The Koranic Paradise).Kinh Koran (47:15) cho biết trên thiên đàng có những con sông với những dòng nước nguyên chất (rivers of purest water) những con sông sữa tươi không bao giờ hư (rivers of milk for ever fresh) và những con sông mật ong trong sạch nhất (rivers of clearest honey). Chương 56:16-39 mô tả thiên đàng là những khu vườn lạc thú (garden of delights) và mọi người lên thiên đàng đều trở thành những thanh niên trẻ mãi không già (Immortal Youth). Điều đặc biệt nhất là trên thiên đàng Hồi Giáo có các cô gái trinh đẹp tuyệt vời với những cặp mắt đen huyền vô cùng quyến rũ (the dark-eye houris).Thiên Chúa Allah đã phán rằng: "Ta đã tạo ra các cô trinh nữ tuyệt vời đó, giữ cho họ mãi mãi trinh trắng với tình yêu nồng nàn để làm phần thưởng cho những ai làm việc phải" (We created the hourist and made them virgins, loving compassion, a reward for those on the right hand - Koran: surah 56).Hầu hết các thanh niên Hồi Giáo cuồng tín đều ước mơ sớm được lên thiên đàng lạc thú. Con đường ngắn nhất và bảo đảm nhất để họ đạt được mục đích này là sẵn sàng tử đạo trong các cuộc thánh chiến (Jihad). Kinh Koran hứa rằng: "Những ai bị giết vì Chúa đều được vào thiên đàng lạc thú" (As for those who are slain in the cause of God, He will admit them to the Paradise of Delight). "Đừng bao giờ nghĩ rằng những người bị giết vì Chúa sẽ chết. Họ sẽ sống mãi, không có gì phải sợ hãi hoặc hối hận, hãy vui hưởng các hồng ân của Chúa. Chúa không bao giờ từ chối phần thưởng dành cho các tín đồ của Ngài" (Never think that those who were slain in the cause of God are dead. They are alive and well provided for by the Lord. Have nothing to fear or to regret, rejoicing in God's grace. God will not deny the faithful their reward - Koran 3:169).
Tên khủng bố Atta là phi công chủ chốt lái máy bay lao vào tòa cao ốc ở New York ngày 11-9-2001 đã tắm rửa sạch sẽ và nai nịt hạ bộ của y cẩn thận trước khi thi hành công tác khủng bố này. Y đã chuẩn bị sẵn sàng để đi vào thiên đàng lạc thú với những người đẹp muôn đời của y.
15. Những ngày lễ hội quan trọng nhất trong năm.
a. Lễ hội chấm dứt mùa chay Ramadan (The end of Ramadan).
Mùa chay kham khổ của các tín đồ Hồi Giáo trên toàn cầu kéo dài ròng rã suốt tháng 9 Âm lịch. Ngày 1 tháng 10 Âm lịch Hồi Giáo là ngày vui nhất trong năm của người Hồi Giáo, cũng tương tự như tết Nguyên Đán của người Trung Hoa và Việt Nam.
b. Lễ Mừng Sinh Nhật của giáo chủ Muhammad (Mawlid). Giáo phái Sunni (chiếm 80% tổng số tín đồ) mừng sinh nhật của Muhammad vào ngày 12 tháng 3 Âm lịch, giáo phái Shiite (chiếm 12%) mừng sinh nhật vào ngày 17-3 Âm lịch Hồi Giáo, tức sau 5 ngày. Các quốc gia công nhận đạo Hồi là quốc giáo coi ngày lễ này như ngày quốc khánh, khắp nơi trong cả nước tưng bừng treo cờ, kết hoa và chăng đèn tương tự như Lễ Noel tại các nước Ki Tô Giáo Tây Phương.
c. Lễ Mừng Muhammad lên trời (Miraj). Giáo phái Sufis tin rằng Muhammad đã lên trời cả hồn và xác như Jesus. Lễ Miraj cũng tương tự như Lễ Thăng Thiên (Ascension) của Ki Tô Giáo. Cả hai vị giáo chủ nầy đều được tin rằng đã lên trời tại Jerussalem. Jesus đã tự mình bay lên trời, còn Muhammad được thiên thần Gabriel trao cho một con ngựa thần có cánh (Buraq) chở ông bay về trời. Giáo phái Sufis Thổ Nhĩ Kỳ thường tổ chức các cuộc hòa nhạc kích động và các cuộc khiêu vũ tưng bừng để mừng lễ này.
d. Lễ hội Ashura kích động hận thù của giáo phái Shiite.- Vào ngày 10 tháng Giêng năm 680, cháu ngoại của Muhammad là Husayn (con trai của Ali và Fatima) bị triều đại Ummayad (theo giáo phái Sunni) sát hại. Giáo phái Shiite chọn ngày này làm lễ kỷ niệm gọi là Ashura, tương tự như Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday) của Ki Tô Giáo.
Đây là ngày kỷ niệm mang đầy kịch tính nhằm gây xúc động tột độ nơi các tín đồ. Ở khắp nơi diễn ra những cảnh tượng quân Ummayads hành hạ Husayn và cuối cùng Husayn bị chém đầu . Các tín đồ khóc sướt mướt, đồng thời la hét nguyền rủa quân Ummayads. Buổi lễ được kết thúc bằng một đám rước khổng lồ với chiếc đầu giả của Husayn. Lễ Hội Ashura gây xúc động nhiều nhất là ở Iran và Ấn Độ (New Delhi). Iraq có 60% tín đồ theo giáo phái Shiite nhưng bị Saddam Hussein theo giáo phái Sunni đàn áp. Từ 1979, chế độ Saddam đã sát hại nhiều trăm ngàn tín đồ Shiite cực đoan theo báo cáo của Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (Houston Chronicle, Sunday May 18-2003, page 23A).

Nguồn gốc

Đối với người ngoài, đạo Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ 7 tại bán đảo Ả Rập, do Thiên Sứ Muhammad nhận mặc khải của thượng đế truyền lại cho con người qua thiên thần Jibrael . Đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah Đấng Tối Cao, Đấng Duy Nhất (tiếng Ả Rập: الله Allāh). Đối với tín đồ, Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng được Allah mặc khải Thiên Kinh Qur'an (còn viết là Koran) qua Thiên thần Jibrael
Điều đầu tiên chúng ta nên biết và hiểu rõ về Islam là từ “Islam” có nghĩa là gì. Tên Islam không được đặt theo tên người như trong trường hợp Cơ đốc giáo, được đặt tên theo Giê-su, Phật giáo được đặt tên theo Đức phật Gotama, đạo Khổng được đặt tên theo Khổng Tử, và chủ nghĩa Mác được đặt tên theo Các Mác.
Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời của hồi giáo
Hồi giáo (tôn giáo của tộc người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc gọi đạo Islam (theo tiếng Ảrập nghĩa là phục tùng theo ý chân chủ) xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào khoảng thế kỷ thứ VII. Ảrập Xêut là quê hương của Hồi giáo. Hồi giáo ra đời do hàng loạt nguyên nhân kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với sự chuyển biến từ chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp của các tộc người vùng Trung cận Đông và yêu cầu thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập thành một nhà nước phong kiến thần quyền do đó cần một tôn giáo độc thần để thay thế những tôn giáo đa thần tồn tại ở đó từ trước.
Sự ra đời và phát triển của Hồi giáo
Sự ra đời của Hồi giáo gắn liền với tên tuổi một người nổi tiếng là giáo chủ Mohammed (Mahomet). Mâohammed (570 – 632) là một người thuộc gia tộc Casimu ở Mecca.
Tục truyền rằng khi Mohammed được 40 tuổi (năm 610) ông một mình vào trong một hang nhỏ ớ núi Xira, ngoại thành Mecca để tu luyện và trầm ngâm suy tưởng. Trong một đêm thánh Allah (Ala – Chân chủ) đã cử thiên sứ Gabrien đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên “khải thị” cho ông chân lý của Kinh Coran khiến ông trở thành “Thánh thụ mệnh” và ông tự xưng là đã tiếp thụ sứ mệnh của chân chủ trao cho và bắt đầu truyền đạo. Đầu tiên ông bí mật truyền giáo trong số những bạn bè thân thiết và họ trở thành những tín đồ đầu tiên, về sau sự truyền đạo trở nên công khai, đối tượng mở rọâng tới quần chúng ở Mecca nhưng bị giới quý tộc đả kích và bức hại. Môhamet đã trốn được đến Yathrib (sau đổi thành Madinah – Thành phố tiên tri). Ơû đây ông phát động và tổ chức quần chúng đấu tranh và cuộc cách mạng của ông giành được thắng lợi. Sau đó ông tổ chức vũ trang cho các tín đồ (Muslim) và dùng khẩu hiệu “Chiến đấu vì Allah” và đè bẹp được giới quý tộc ở Mecca.
Cùng với việc mở rộng phạm vi truyền đạo Mohamet còn liên minh với các bộ tộc và dùng sức mạnh buộc các thế lực còn lại phải quy thuận theo Hồi giáo. Có thể nói cuộc cách mạng do Mohammed lãnh đạo là một cuộc cách mạng tôn giáo và cải cách xã hội kết hợp với nhau. Sự ra đời của Hồi giáo đã mở ra một thời kỳ lịch sử mới thống nhất trên bán đảo Ảrập.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 900 triệu tín đồ Hồi giáo có mặt ở hơn 50 quốc gia trên khắp các châu lục nhưng tập trung chủ yếu ở các nước Ảrập (trừ Li băng và Ixraen) và chiếm đại đa số ở các nước như Iran, Irắc, Pakistan, Apganistan, Thổ Nhĩ Kỳ… và một số nước vùng Trung Á và cả ở Đông nam Á (chủ yếu ở Inđonesia). Một số quốc gia tự coi mình là quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên Hồi giáo ở các quốc gia khác nhau nên đã phân chia thành các hệ phái khác nhau nhưng về cơ bản không đối lập nhau.
2. Nội dung cơ bản của Hồi giáo
Giáo lý
Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham nhưng giáo lý Hồi giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Cơ đốc giáoDo Thái giáo. Thể hiện rõ trong kinh Koran (trong 6219 câu của kinh này đã thể hiện nội dung của kinh Cựu ƯớcTân Ước). Không như những tôn giáo bạn, đạo Hồi chỉ có duy nhất một quyển thiên kinh Qur'an, gồm có 114 chương, 6236 tiết. Đối với các tín đồ Hồi giáo, thiên kinh Qur'an là một vật linh thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah Đấng Toàn Năng.
Người Hồi giáo tin tưởng các vị sứ giả đến trước sứ giả Muhammad, kể từ Adam đến Jesus xuyên qua Noah, Abraham, Moise, v.v. Họ cũng tin tưởng Cựu ướcTân ước là kinh sách của Allah nhưng họ không thi hành theo vì sự "lệch lạc" do người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo tạo ra và thiên kinh Qur'an được Allah mặc khải xuống để điều chỉnh lại những gì đã sai trái ở hai kinh sách đó.
·                     Jesus đối với người Hồi giáo là một sứ giả rất được kính mến, nhưng họ không tin Jesus là con của Thiên Chúa (Allah), đối với họ Jesus chỉ là một con người, một sứ giả như mọi sứ giả khác vì theo quan điểm của Hồi giáo thì Thiên Chúa không có con, như Thiên kinh Qur'an đã phán:
Allah là Đấng Tạo Thiên Lập Địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không hề có người bạn đường? Chính Ngài là Đấng đã sáng tạo và thông hiểu tất cả mọi vật." (trích 6:101)
·                     Hồi giáo không chấp nhận tội tổ tông, việc làm của Adam và Eve không phải là nguồn gốc tội lỗi của loài người. Và không có một ai có quyền rửa tội cho một ai khác; ngoại trừ Allah.
Sự khác nhau giữa Cựu Ước, Tân Ước và Thiên Kinh Qur'an trên quan điểm Đấng Toàn Năng như sau:
Cựu Ước:Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình.
Tân Ước:Ta và Cha ta là một.
Thiên Kinh Qu'ran:Ngài là Đấng Duy Nhất. Allah Đấng Độc Lập và Cứu Rỗi. Ngài chẳng sinh ra ai và cũng chẳng ai sinh ra Ngài. Không một ai đồng đẳng với Ngài.
Đạo Hồi không có Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qur'an cũng liệt kê mười điều tương tự:
1.                 Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Á Rập là Allah).
2.                 Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
3.                 Tôn trọng quyền của người khác.
4.                 Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
5.                 Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (*).
6.                 Cấm ngoại tình.
7.                 Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
8.                 Hãy cư xử công bằng với mọi người.
9.                 Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
10.            Hãy khiêm tốn
(*) Trường hợp đặc biệt được phép giết người mà không bị trọng tội là:
1) Trong khi kháng cự hoặc chiến đấu chống lại những kẻ lùng giết người đạo mình nhằm cưỡng bách bỏ đạo. Nhưng nếu chiến thắng, phải noi gương thiên sứ Muhammad, tha thứ và đối xử nhân đạo với phần đông kẻ bại trận.
2) Giết những tên sát nhân để trừ hại cho dân lành.
Ngoài ra tín đồ Hồi giáo có một số luật lệ:
·                     Một lần trong đời, họ phải hành hương về thánh địa Mecca, nhưng với điều kiện họ không vay mượn hay xin phí tổn. Trước khi đi, họ phải lo cho gia đình vợ con đầy đủ những nhu cầu cần thiết trong thời gian họ vắng mặt hành hương.
·                     Nghiêm cấm ăn máu, thịt con vật đã chết trước khi được cắt tiết theo nghi thức; không được ăn thịt lợn vì lợn là con vật bẩn thỉu.
·                     Nghiêm cấm uống rượu và các thức uống lên men.
·                     Nghiêm cấm cờ bạc.
·                     Nghiêm cấm gian dâm và trai gái quan hệ xác thịt trước khi cưới hỏi.
·                     Nghiêm cấm ăn những con vật ăn thịt sống hay ăn tạp (như chó, mèo, chuột, v.v.).
·                     Người Hồi giáo chỉ được ăn thịt halal, tức là thịt đã được giết mổ theo nghi thức của đạo Hồi. Tuy nhiên, trong trường hợp tuyệt đối không có gì ăn, họ được ăn mọi thứ để duy trì sự sống.
·                     Hàng năm phải thực hiện tháng ăn chay Ramadan để tưởng nhớ và biết thương xót người nghèo. Tháng này tính theo lịch Mặt Trăng. Trong tháng này, khi còn ánh sáng Mặt Trời, họ không được ăn và uống, đến đêm thì mới ăn. Cũng trong tháng này, con người phải tha thứ và sám hối, vợ chồng không được gần nhau vào ban ngày nhưng ban đêm vẫn có thể ân ái với nhau. Trẻ em và phụ nữ có mang không phải thực hiện Ramadan.
·                     Hồi giáo nghiêm cấm kỳ thị chủng tộc và tôn giáo, tín đồ Hồi giáo không được phép chỉ trích cũng như phán xét người khác. Đó là việc của Allah Đấng Toàn Năng
Năm điều căn bản của đạo Hồi:
1.                 Tuyên đọc câu Kalimah Sahadah: Ash Ha Du Allah Ila Ha Il Lallah Wa Ash ha du an na Muhammader rosu Lullah, có nghĩa Tôi công nhận Allah là thượng đế duy nhất và ngoài ra không có ai khác cả và tôi công nhận Muhammad là vị sứ giả cuối cùng của Ngài
2.                 Cầu nguyện ngày năm lần: Buổi bình minh, trưa, xế trưa, buổi hoàng hôn và tối.
3.                 Bố thí.
4.                 Nhịn chay tháng Ramadan.
5.                 Hành hương tại Mecca.
Trên phương diện khoa học nhân văn, Hồi giáo là một tôn giáo ra đời vào thế kỷ thứ 7, dựa trên những nền tảng có sẵn của Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo. Đôi khi người ta cũng gọi Hồi giáo là đạo Muhammad (Muhammadanism), theo tên của đức sáng tổ. (thật ra đạo Islam không dựa trên những nền tảng có sẵn của Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo như đã nêu, và việc gọi đạo Islam theo cái tên đạo Muhammad là hoàn toàn sai bởi vì Thiên Sứ Muhammad không phải là người sáng lập Người chỉ là người được Allah lựa chọn ban cho lời mặc khải của Ngài rồi truyền đạt lại cho người khác.)
Tuy nhiên, với những tín đồ Hồi giáo, đạo của họ là đạo thường hằng trong vũ trụ, do Thượng Đế tạo ra, và vì Thượng Đế vốn bất sinh bất diệt nên đạo của Ngài cũng bất sinh bất diệt; còn Muhammad đơn thuần chỉ là một người "thuật nhi bất tác", thuật lại cho mọi người những mặc khải của Thượng Đế mà thôi. Trong quan niệm của các tín đồ, Hồi giáo không khởi sinh từ Muhammad. Với họ, con người đầu tiên do Thượng Đế tạo ra, tức Adam, là tín đồ Hồi giáo đầu tiên, và ngay từ thuở hồng hoang, khắp đất trời đã là một vương quốc Hồi giáo. Không chỉ người mà thôi, mà tất cả muông thú, cỏ cây đều tuân theo Hồi giáo cả. Sở dĩ Adam và loài người được kiến tạo là để thay mặt Thượng Đế cai quản các loài thảo cầm ở nhân gian. Và vì đẳng cấp của loài người cao như thế tự do ý chí nên vấn đề nảy sinh từ đây. Sự tự do ý chí đôi khi dẫn đến những lầm lạc, lầm lạc dẫn đến rời bỏ Thượng Đế, và xa dần chính đạo. Khi Adam, con người đầu tiên và cũng là Thiên Sứ đầu tiên, lìa trần, con cháu ông, không còn ai chỉ bảo, càng lún sâu vào con đường tối. Do thế mà Thượng Đế lại phải gửi xuống nhân gian những vị Thiên Sứ mới để nhắc lại Thiên Đạo, đưa loài người về đúng nẻo ngay. Trước Muhammad, đã có hằng trăm ngàn Thiên Sứ giảng lời mặc khải ở trần thế, trong đó có Noah, Abraham (Ibrohim), Moses (Musa), David (Dawud) và Jesus (Ysa)... Tuy nhiên, một là do loài người u mê chưa tỉnh ngộ, hai là do sự ngoan cố, tự cao, tự đại của con người, mà chính đạo vẫn bị bóp méo như thường. Rốt cuộc, đến thế kỷ thứ 7, Thượng Đế khải thị cho Muhammad, và biến ông trở thành vị Thiên Sứ hoàn hảo nhất trước nay, hơn hẳn những Thiên Sứ tiền nhiệm. Do đó mà đạo của Muhammad truyền bá cũng là hoàn hảo nhất, không thể bị bóp méo như trước kia. Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng, và bất cứ ai dám xưng Thiên Sứ sau Muhammad đều là kẻ tà giáo. Như đã thấy ở trên, Abraham (Ibrohim) cử xuống cho Do Thái Giáo, và Jesus Christ (Ysa) cử xuống cho Cơ Đốc Giáo, đều có vị trí Thiên Sứ trong Hồi giáo. Như vậy, Thiên Chúa mà ba tôn giáo này thờ phượng chỉ là một. Nói về Hồi giáo, chúng ta vẫn thường hay nhắc Thánh Allah, nhưng gọi như thế là sai, vì Allah trong tiếng Arab mang nghĩa là Thượng Đế. (Những tín đố Cơ Đốc người Arab khi cầu nguyện cũng gọi Đức Chúa Cha là Allah). Thượng Đế dĩ nhiên phải cao hơn Thánh và là duy nhất, vả lại trong đạo Hồi chính thống hoàn toàn không có khái niệm Thánh. Người Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo cũng được tín đồ Hồi Giáo tương đối coi trọng và gọi là Giáo Dân Thánh Thư (People of The Book). Kinh Thánh Cơ Đốc cũng là sách thiêng trong Hồi giáo, có điều người ta coi nó không đầy đủ và hoàn thiện như Koran.
Giáo lý của Hồi giáo
Đặc điểm giáo lý của Hồi giáo là rất đơn giản nhưng luật lệ và lễ nghi rất phức tạp và nghiêm khắc thậm chí đến mức khắt khe và nhiều khi nó vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo và trở thành một chuẩn mực pháp lý của xã hội. Trong Hồi giáo khó thấy ranh giới giữa cái thiêng và cái tục.
Giáo lý cơ bản của Hồi giáo là Kinh Coran (Coran theo nguyên nghĩa tiếng Ảrập là “tụng đọc”) vì đó là những lời nói của Môhamet được ghi lại và những lời này do thánh Allah thông qua thiên sứ Gabrien “khải thị” cho Mohammed. Kinh Coran tổng cộng có 30 quyển, 114 chương hơn 6200 tiết (là những đoạn thơ). Nội dung Kinh Coran vô cùng phong phú đại thể bao gồm những tín ngưỡng cơ bản và chế độ tôn giáo của đạo Hồi và những ghi chép về tình hình xã hội trên bán đảo Ảrập đương thời cùng với những chính sách về chủ trương xã hội, quy phạm luân lý đạo đức… Giáo lý Hồi giáo gồm các điểm cơ bản sau:
+ Allah là đấng tối cao sinh ra trời đất.
+ Allah là đấng tối cao sinh ra muôn loài trong đó có con người.
+ Con người là bình đẳng trước Allah nhưng số phận và tài năng tạo nên sự khác nhau giữa những con người .
+ Số phận con người có tính định mệnh và do Allah sắp đặt.
+ Tín đồ Hồi giáo phải luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo) thì phải kiên nhẫn chịu đựng, phục tùng Allah, đối với người ngoài thì phải kiên quyết bảo vệ mọi lợi ích của Hồi giáo và phải có tinh thần thánh chiến.
+ Về y lý: khuyên bảo con người phải giữ gìn sức khỏe.
+ Những lời khuyên về đạo lý:
·                     Tôn thờ thần cao nhất là Allah.
·                     Sống nhân từ độ lượng.
·                     Thưởng phạt công minh, trừng phạt chủ yếu đối với kẻ thù.
·                     Thánh chiến là thiêng liêng và bắt buộc.
·                     Kiên định và nhẫn nại trong mọi thử thách.
·                     Tin vào định mệnh và sự công minh của Allah.
·                     Cấm một số thức ăn: thịt heo, rượu bia và các chất có men. (Heo là con vật gắn với khởi nguyên: phát triển là nhờ chăn nuôi).
·                     Trung thực.
·                     Không tham của trộm cắp
·                     Làm lễ và tuân thủ các nghi lễ Hồi giáo.
Tín ngưỡng Hồi giáo
Xét về niềm tin, tín đồ Hồi giáo tin vào Alah, sứ giả Mohammed, thiên sứ, thiên kinh, hậu thế.
- Tin vào Alah: Đây là một nội dung quan trọng của tín điều cơ bản. Theo Hồi giáo, Alah là vị thần duy nhất trong vũ trụ, tự sinh ra và bất tử. Alah sáng tạo thế giới, và là chúa tể. Hồi giáo không thờ ảnh tượng của Alah vì họ quan niệm Alah toả khắp nơi, không một hình tượng nào đủ để thể hiện Alah.
- Tin vào sứ giả Mohammed: Giáo lý Hồi giáo cho rằng Allah từng cử nhiều sứ giả đến các dân tộc khác nhau trong những thời kỳ nhất định để truyền đạt ngôn luận của Allah cho con người. Có đến 5 sứ giả. Trong đó Mohammed là sứ giả cuối cùng mà Allah chọn lựa. Đây cũng là sứ giả xuất sắc nhất. Chỉ có Mohammed là được nhận những ngôn luận của Allah một cách đầy đủ nhất.
- Tin Thiên kinh: Allah từng trao thiên kinh cho các sứ giả trước Mohammedû, mỗi người một bộ. Nhưng những bộ ấy không đầy đủ, bị thất lạc hoặc bị người đời sau giải thích sai lệch. Chỉ có bộ thiên kinh mà Allah truyền cho Mohammed là bộ kinh điển cuối cùng nhưng đầy đủ nhất. Đó là kinh Coran. Vì vậy, kinh Coran dưới mắt người Hồi giáo làø bộ kinh điển thần thánh duy nhất.
- Tin vào Thiên sứ: Thiên sứ do Allah tạo ra, là một loại linh hồn, vô hình trước con người, không có tính thần. Mỗi thiên sứ có một nhiệm vụ. Trong Thiên sứ cũng có sự phân chia cao thấp. Cao nhất là thiên sứ Gabrien. Con người không phải phủ phục trước thiên sứ.
- Tin vào hậu thế: Sẽ có ngày tận thế. Trong ngày ấy, mọi sinh linh sẽ kết thúc để rồi tất cả sống lại nhận sự phán xét của Allah. Dựa vào hành vi của mỗi người mà Allah quyết định: thiên đường dành cho người thiện, địa ngục là nơi của kẻ ác.
Nghĩa vụ Hồi giáo
Hệ thống nghĩa vụ của tín đồ Hồi giáo rất rộng và chi tiết, dựa trên cơ sở kinh Coran và sách Thánh huấn.
Các tín đồ có 5 nghĩa vụ chủ yếu. Đó là niệm, lễ, trai, khoá, triều. Đây là 5 trụ cột của Hồi giáo, tạo nên sườn cốt cho đời sống của người Hồi giáo.
- Niệm: tín đồ phải thường xuyên tụng niệm thành tiếng tín điều cơ bản (Vạn vật không phải là Chúa, chỉ có Chân chúa; Mohammed là sứ giả của Chúa).
- Lễ: tức là lễ bái. Các tín đồ mỗi ngày hành lễ 5 lần (sáng, trưa, chiều, tối, đêm). Thứ 6 hàng tuần thì làm lễ tại thánh đường 1 lần vào buổi trưa. Trước khi làm lễ, tín đồ phải rửa mặt, tay chân, quỳ xuống, hướng về đền Kabah để cầu nguyện.
- Trai: tức là trai giới. Tháng 9 theo lịch Hồi là tháng trai giới của Hồi giáo. Trong tháng này mọi tín đồ không ăn uống, quan hệ tính dục từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, trừ một số trường hợp đặc biệt. Kết thúc tháng này là lễ Phá bỏ sự nhịn đói, các tín đồ sẽ cùng nhau cầu nguyện, sau đó tặng quà cho nhau, và bố thí.
- Khoá: các tín đồ có nghĩa vụ đóng góp cho các hoạt động từ thiện. Sự đóng góp đó có thể là tự nguyện, nhưng cũng có khi là bắt buộc dựa vào tài sản của tín đồ (khoảng 1/40 tài sản).
- Triều: Các tín đồ có nghĩa vụ hành hương về Mecca ít nhất 1 lần trong cuộc đời, để triều bái Kabah trong tháng 12 theo lịch Hồi (hành hương Haji). Cuộc lễ triều bái kéo dài trong 10 ngày. Ngày cuối cùng tín đồ sẽ hiến lễ là một con cừu hoặc lạc đà, hoặc một con vật có sừng. Triều bái Mecca trong dịp này là chính triều. Còn phó triều thì diễn ra trong thời gian bất kỳ của năm và ít nghi lễ hơn.
Ngoài ra, Hồi giáo còn có nhiều quy định cụ thể về hành vi của tín đồ trong các mối quan hệ xã hội.
Tổ chức Hồi giáo
Thánh đường Hồi giáo là nơi sinh hoạt tập thể và có tính thiêng với các tín đồ. Thánh đường gồm có Đại Thánh đường và Tiểu Thánh đường. Trong Thánh đường có bài trí đơn giản, không bàn ghế, không có đồ thờ quý hay nhạc cụ, chỉ có chiếc gậy mà theo truyền thuyết là của giáo chủ Môhammet đã dùng nó để đi truyền đạo.
Hệ thống chức sắc gồm có Giáo chủ (Mufty), phó giáo chủ (Naib Mufty), Giáo cả (Ha Kim), phó giáo cả (Naib Ha Kim), Imân, Khatib, Tuan, Bilat, Slak, HaDji.

ĐIỂM LẠI VÀI NÉT VỀ XUNG ĐỘT GIỮA PALEXTIN VỚI IXRAEN

Mối hiềm khích xung đột giữa người Arập với người Do Thái có lịch sử lâu đời, phức tạp, xoay quanh vấn đề quan trọng nhất : mảnh đất hiện nay người Ixraen ở có phải là của họ hay là của người Arập Palextin ? Ngoài ra nó cũng liên quan đến tôn giáo, đến việc người Do Thái bị người theo đạo Ki Tô ở nhiều nước hắt hủi, xua đuổi.
Cách đây 5000 năm, người Do Thái được gọi là người Hêbrơ (Hebrew). Theo Kinh Thánh, khi bộ lạc này đang sống du mục trên bán đảo Arập thì được Thượng Đế trao cho mảnh đất Canaan – phía Tây giáp Địa Trung Hải, phía Đông giáp sông Gioocđan và Biển Chết, phía Bắc giáp dãy núi Hecmôn biên giới với Libăng; phía Nam giáp bán đảo Sinai. Về sau xứ Canaan được gọi là Palextin; người Arập sống ở đây được gọi là người Palextin. Vào khoảng giữa thiên niên kỷ III và II trước công nguyên (tr. CN) người Do Thái đến Canaan định cư. Năm 1710 tr. CN, do nạn đói, họ tạm lánh sang Ai Cập. Năm 1251 tr. CN họ trở về Canaan lúc này đã bị người Philistin chiếm. Hai bên đánh nhau, người Do Thái thắng và xây dựng vương quốc Do Thái ở Canaan. Tại đây có cả người Arập sống chung, nhưng người Do Thái chiếm đa số trong suốt 1600 năm (1000 tr. CN - 636). Thời kỳ 1000 - 597 tr. CN, vương quốc Do Thái phát triển phồn vinh, tuy có những thời gian bị người Asua, Babylon, Ba Tư, Hy Lạp, Ai Cập và La Mã xâm lược. Vương quốc thời vua Solomon (1000 tr. CN) có địa giới như trong hình 1.
Năm 168 tr. CN, đế quốc La Mã chiếm nước này trong 6 thế kỷ và đổi tên là Palextin Giuđêa (Judea Palestine) theo cách gọi của người Philistin. Người Do Thái bắt đầu phân tán sống lưu vong ở nhiều nước khác. Sau khi đạo Ki Tô ra đời, người Do Thái bị các tín đồ Ki Tô giáo nhiều nơi hắt hủi xua đuổi, họ lại về Palextin định cư.
Năm 637, người Arập chiếm xứ Palextin. Trong 1300 năm tiếp sau, tiếng Arập và đạo Islam (Hồi giáo) chiếm ưu thế ở xứ này, nhưng người Do Thái vẫn tồn tại như một dân tộc thiểu số; quan hệ giữa 2 dân tộc này không căng thẳng. Thời gian 1099-1291, xứ Palextin bị Thập tự quân Ki Tô giáo chiếm; họ ngược đãi, tàn sát người Do Thái ở đây nhưng vấp phải sự chống đối của người Arập và Do Thái. Năm 1291, người Mameluk theo đạo Islam đánh đuổi Thập tự quân rồi cai trị Palextin. Từ năm 1517, xứ này bị đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ cai trị trong 4 thế kỷ; người Do Thái tiếp tục bị ngược đãi. Tuy vậy họ vẫn tiếp tục từ châu Âu, chủ yếu từ Nga, di cư về Palextin. Thời gian 1880-1914 có 60 nghìn người Do Thái đến đây; họ mua đất của người địa phương với giá cực cao để sống trên mảnh đất Kinh Thánh nói là của họ. Năm 1909 họ xây dựng một thành phố mới là Tel Aviv. Năm 1914 ở Palextin có 500 nghìn người Arập và 90 nghìn người Do Thái.
Thời kỳ thuộc Anh (năm 1920)
Năm 1917, sau khi thắng cuộc chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ, nước Anh chiếm vùng Trung Đông, trong đó có xứ Palextin. Trong Tuyên ngôn Balfour, Anh hứa ủng hộ lập nhà nước của người Do Thái trên xứ này; điều đó đã kích thích chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism, đòi lập nhà nước Do Thái) phát triển. Tổ chức Zionism đưa lên Hội nghị Hoà bình Pari (từ tháng 1 đến 6.1919) bản đồ yêu cầu lãnh thổ của họ, nhưng bị bác bỏ. Năm 1920 Hội Quốc Liên thừa nhận Anh được quyền uỷ trị xứ Palextin. Người Do Thái khắp nơi đẩy mạnh di cư về đây. Thời gian 1920-1925, Quỹ Dân tộc Do Thái chi 1 triệu đồng bảng Ai Cập mua đất vùng thung lũng Jezreel để định cư. Năm 1928 xứ Palextin có 590 nghìn người Arập và 150 nghìn người Do Thái.
Lo ngại trước dòng người Do Thái đến ngày một tăng, từ năm 1920 người Arập ở Palextin bắt đầu tấn công họ; người Do Thái tổ chức tự vệ. Cảnh sát Anh ngăn cấm hai bên đánh nhau, nhưng không thành công, vì hai cộng đồng này sống xen kẽ nhau.
Sau năm 1917, người Do Thái ở châu Âu ủng hộ cách mạng Nga, vì thế họ bị xua đuổi, tàn sát ngày một nhiều, nhất là sau khi Hitle lên cầm quyền ở Đức (1933). Họ phải di cư sang các nước khác.
Chỉ trong 3 năm kể từ 1933, người Do Thái ở Palextin đã tăng từ 230 nghìn lên 400 nghìn, bằng 1/3 số người Arập, và đến năm 1940 đã gần bằng nhau, tuy người Do Thái có rất ít đất (xem hình 3). Người Arập càng tăng cường tấn công người Do Thái và phá ruộng vườn nhà cửa của họ. Cảnh sát Anh ngăn cấm và đàn áp các cuộc xung đột, nhưng bị người Arập đánh trả.
Năm 1937, Chính phủ Anh kiến nghị tách Palextin ra làm 2 nước, một của người Arập, một của người Do Thái, riêng hành lang từ Jerusalem đến Jaffa sẽ do Anh kiểm soát. Người Do Thái miễn cưỡng tán thành, người Arập phản đối đề nghị này. Xung đột leo thang; người Do Thái kháng cự ngày càng mạnh và dần dần thắng thế.
Sở hữu Do Thái, năm 1947
Tháng 11.1947, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (LHQ) quyết định tách Palextin thành 2 nhà nước, một của người Arập, một của người Do Thái, lập Liên minh Kinh tế 2 nước này, theo đó Jerusalem là khu vực quốc tế và vẫn có một số khu định cư của người Do Thái nằm trong vùng đất chia cho người Arập, nghĩa là vẫn sống xen kẽ nhau. Người Do Thái tán thành, người Arập phản đối quyết định trên. Tháng 5.1948, quân đội Anh rút khỏi Palextin.
Ngày 14.5.1948, nhà nước Ixraen của người Do Thái tuyên bố thành lập. Quân đội Ai Cập, Gioocđani, Xyri và Libăng lập tức tiến công Ixraen, nhưng vấp phải sự chống trả mạnh. Năm sau, Ixraen ký hiệp định ngừng bắn riêng với các nước Arập; theo đó, Gioocđani chiếm phía Tây sông Gioocđan, Ai Cập chiếm dải Gaza; không bên nào bảo đảm sự tự trị của người Palextin. Thời gian 1951-1956, các nhóm khủng bố Palextin được các nước Arập giúp đỡ ra sức tấn công Ixraen. Liên Xô tăng cường ảnh hưởng tại Trung Đông bằng việc viện trợ quân sự cho các nước Arập. Mỹ cũng thay dần vai trò của Anh, Pháp tại vùng này và viện trợ mạnh cho Ixraen. Tháng 10.1956, Ixraen xâm phạm vùng Sinai của Ai Cập. Quân đội Anh, Pháp can thiệp giúp Ixraen. Ngày 6.11, LHQ tổ chức ngừng bắn giữa hai bên dưới sự giám sát của Lực lượng Khẩn cấp LHQ.
Năm 1964, Tổ chức Giải phóng Palextin PLO ra đời với nòng cốt là lực lượng Phata của ông Arafat, nhằm đấu tranh chống lại sự chiếm đóng của Ixraen. Trụ sở của PLO mới đầu đặt ở Gioocđani, nhưng sau một cuộc nội chiến đẫm máu, PLO bị trục xuất, phải chuyển sang Libăng, rồi các nước Arập khác. Năm 1974, LHQ công nhận PLO là đại diện của nhân dân Palextin.
Tháng 5.1967, theo yêu cầu của Ai Cập, Lực lượng LHQ rút khỏi Sinai. Sau đó Ai Cập chiếm dải Gaza và phong toả cảng Akaba của Ixraen. Ngày 5.6.1967, Ixraen tiến hành cuộc “Chiến tranh 6 ngày”, chiếm dải Gaza, bán đảo Sinai sát kênh đào Suez, khu Đông Jerusalem, cao nguyên Golan của Xyri và vùng Bờ Tây sông Gioocđan. Cuộc chiến kết thúc ngày 10. 6 theo các thoả thuận ngừng bắn do LHQ thu xếp. Ixraen chiếm được một vùng đất rộng của các nước đối địch.
Ngày 6.10.1973, Ai Cập và Xyri tấn công Ixraen. Quân đội Ixraen phản công thắng lợi, vượt qua kênh Suez. Ngày 24.10, hai bên ngừng bắn và Lực lượng Gìn giữ Hoà bình LHQ tiến vào khu vực này. Theo Hiệp định ký ngày 18.1.1974, Ixraen rút quân ra khỏi bờ Tây kênh Suez. Tháng 11.1977, Tổng thống Ai Cập Sadat thăm Jerusalem. Ngày 26.3.1979, Ai Cập và Ixraen ký Hoà ước kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm. Năm 1982, Ixraen trả lại bán đảo Sinai cho Ai Cập.
Để trả đũa các phần tử khủng bố người Libăng, tháng 3.1978 Ixraen tấn công nước này. Về sau, tuy Ixraen có rút quân ra khỏi Libăng nhưng vẫn giúp đỡ các lực lượng vũ trang Ki Tô giáo ở đây chống lại các nhóm vũ trang đạo Ixlam.
Tháng 6.1981, máy bay Ixraen ném bom phá huỷ Lò phản ứng nguyên tử của I-rắc ở gần Bátđa. Một năm sau, Ixraen lại tiến vào Libăng, phá trụ sở của PLO, khiến PLO phải chuyển sang nước khác. Quân Ixraen tiến vào Tây Beirut sau khi Tổng thống mới bầu của Libăng là Bashir Gemayel bị ám sát ngày 4.9.1982. Năm 1988, PLO tuyên bố thành lập nhà nước Palextin độc lập trên Bờ Tây sông Gioocđan và dải Gaza (bị Ixraen chiếm từ 1967). Ixraen và Mỹ phản đối tuyên bố này. Người Palextin nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của Ixraen. Bạo lực lại leo thang.
Sau cuộc chiến tranh vùng Vịnh (đầu 1991), tháng 9.1993, PLO tuyên bố thừa nhận quyền tồn tại của Ixraen và Ixraen thừa nhận PLO là đại diện của người Palextin. Ngày 13.9, hai bên ký thoả thuận về quyền tự trị có hạn chế của người Palextin ở vùng Bờ Tây và dải Gaza. Ngày 25.7.1994, Ixraen và Gioocđani ký tuyên bố chấm dứt chiến tranh 46 năm giữa 2 nước. Được Tổng thống Mỹ Clinton đạo diễn, ngày 23.10.1998, lãnh tụ Palextin Arafat và Thủ tướng Ixraen Netanyahu ký thoả thuận, theo đó, Ixraen đồng ý trả thêm đất Bờ Tây cho Palextin theo chính sách “đổi đất lấy hoà bình”. Ngày 24.5.2000, Ixraen rút quân khỏi Libăng. Tháng 6.2001, Sharon (theo đường lối cứng rắn) làm Thủ tướng Ixraen. Người Palextin tăng cường đánh bom tự sát giết dân thường Do Thái. Ixraen đánh trả bằng vũ khí hiện đại và bao vây trụ sở làm việc của ông Arafat. Hai bên đều có thương vong, phía Palextin chết nhiều hơn. Tháng 6.2003, Tổng thống Mỹ G.W.Bush gặp Sharon và Thủ tướng Palextin Abbas, đưa ra sáng kiến “Lộ trình Hoà bình” khu vực Trung Đông, ủng hộ việc thành lập nước Palextin độc lập. Tuy lãnh đạo hai bên thoả thuận ngừng bắn, nhưng các phần tử quá khích của hai bên vẫn tiếp tục chiến đấu theo kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”.
Sau khi ông Arafat qua đời, trong cuộc bầu cử ngày 9.1.2005, ông Abbas theo đường lối ôn hoà lên lãnh đạo Cơ quan Quyền lực cao nhất của Palextin. Dư luận thế giới hoan nghênh kết quả này. Với cố gắng của ông Abbas, tình hình căng thẳng ở Trung Đông đang giảm đi rõ rệt. Palextin và Ixraen bắt tay nhau. Hy vọng về nền hoà bình lâu dài trên mảnh đất Palextin đang nhen lên mạnh hơn bao giờ hết, mối hiềm khích lịch sử giữa 2 dân tộc Arập và Do Thái có vẻ như đang đi đến hồi kết. Tuy vậy, quá trình này sẽ lâu dài và vô cùng gian nan, vì còn phụ thuộc vào Mỹ và nhiều thế lực khác. Khó khăn nhất là ông Abbas chưa kiểm soát được các lực lượng vũ trang Palextin quá khích; rất có thể họ bất ngờ phá hoại mọi cố gắng của ông.

Khánh thành thánh đường Hồi giáo lớn nhất Việt Nam tại Đồng Nai

Thánh đường Hồi giáo được xây dựng với diện tích 3.500m2, trong đó hội trường có đủ chỗ cho khoảng 500 tín đồ cầu nguyện. Nguồn kinh phí xây dựng hơn 2,8 tỷ đồng…
Ngày 15/1, tại xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai) khánh thành thánh đường Hồi giáo lớn nhất Việt Nam. Hơn 6.000 tín hữu đạo Hồi từ các tỉnh Tây Ninh, Bình Thuận, Bình Phước, An Giang, thành phố Hồ Chí Minh tham dự lễ cầu nguyện. Thánh đường Hồi giáo được xây dựng lại trên cơ sở giáo đường cũ, với diện tích 3.500m2, trong đó hội trường có đủ chỗ cho khoảng 500 tín đồ cầu nguyện. Nguồn kinh phí xây dựng hơn 2,8 tỷ đồng từ sự đóng góp của các tín hữu và tài trợ của Hội trăng lưỡi liềm đỏ Arập.
Hiện nay, tỉnh Đồng Nai có hơn 1.900 tín đồ Hồi giáo, trong đó tập trung chủ yếu ở xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc với 1.730 tín đồ./.

 Đạo Hồi tại Việt Nam

Theo một số tài liệu thì Othman bin Affan, vị khalip thứ ba của của đạo Hồi, đã cử tín đồ đạo Hồi đại diện đầu tiên đến Trung Hoa và một số quốc gia ở Đông Nam Á vào thời kỳ nhà Đường ở Trung Quốc vào khoảng năm 650. [cần dẫn nguồn] Có lẽ trong những năm đầu tiên sau khi đạo Hồi khai sáng, thương nhân Ả Rập đi đường biển đã dừng chân tại vương quốc Champa trên đường đến Trung Quốc. Tuy nhiên chứng cớ trong văn tịch chỉ có từ thời nhà Tống. Điều này cho biết người Chăm bắt đầu tiếp nhận đạo Hồi từ cuối thế kỷ 10 sang đầu thế kỷ 11[9][10], bên cạnh tôn giáo chính là Ấn Độ giáo và một thiểu số theo đạo Phật. Số tín đồ tăng dần qua liên hệ với vua Hồi xứ Malacca nhưng phải đến thế kỷ 17 sau khi Champa bị Đại Việt thôn tính thì đạo Hồi mới trở nên thịnh hành với người Chăm[11]. Vào giữa thế kỷ 19, nhiều tín đồ đạo Hồi người Chăm đã di cư từ Cao Miên vào vùng Đồng bằng sông Mekong, phát triển cộng đồng Hồi giáo ở Việt Nam. Điều này lý giải vì sao các tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam tập trung chủ yếu từ miền Trung đổ vào miền Nam Việt Nam.
Hiện nay, những người theo đạo Hồi ở Việt Nam được xem là cô lập với thế giới Hồi giáo. Mệnh lệnh từ Ả Rập thậm chí còn không đến được với những người đứng đầu cộng đồng Hồi giáo tại Việt Nam. Thậm chí, một số tài liệu còn công bố rằng: một vài tín đồ Hồi giáo Việt Nam cầu nguyện đến Ali và nghĩ ông là "con của Chúa"[12][13]. Chủ yếu, các liên hệ với thế giới Hồi giáo Ả Rập của các tín đồ Việt Nam chủ yếu thông qua Malaysia hoặc Indonesia. Sự thiếu liên hệ trực tiếp với thế giới Hồi giáo Ả Rập, cùng với việc thiếu các cơ sở giáo dục Hồi giáo, khiến cho đạo Hồi ở Việt Nam trở nên kém phát triển. Tháng 1 năm 2006, một Thánh đường Hồi giáo lớn tại Việt Nam được xây dựng lại trên nên giáo đường cũ tại xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, đã được mở cửa, dựa trên sự đóng góp một phần từ Hội trăng lưỡi liềm đỏ của tiểu vương quốc ả rập thống nhất Abu Dhabi - UAE. Đây được xem là một trong những sự liên hệ trực tiếp trở lại của tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam với thế giới Hồi giáo Ả Rập.
Tình hình tự do tôn giáo trên Thế giới và ở Việt NamBản tường trình của tổ chức ”Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ” về hiện tình tự do tôn giáo trên thế giới:Ngày 23 tháng 10 vừa qua tổ chức ”Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ” đã công bố bản tường trình về hiện tình tự do tôn giáo trên thế giới. Đây là lần thứ 8 tổ chức công bố kết qủa các nghiên cứu và tin tức liên quan tới tình hình tự do tôn giáo. Bản tường trình năm 2008 dài 600 trang và liệt kê danh sách 60 quốc gia vẫn tiếp tục đàn áp tự do tôn giáo. Bản tường trình đã được dịch ra 7 thứ tiếng khác nhau và được giới thiệu đồng loạt tại Italia, Pháp, Tây Ban Nha và Đức.Buổi họp báo giới thiệu bản tường trình về hiện tình tự do tôn giáo trên giới hôm 23 tháng 10 vừa qua tại Roma do bà Paola Rivetta điều hợp. Trong số các người tham dự có Linh Mục Joaquin Alliende, Giám đốc tổ chức ”Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ”, Linh Mục Bernardo Cervellera, Giám đốc hãng thông tấn Asianews và hai nhà báo Camille Eid và Marco Politi.
Trong số 13 nước bách hại tự do tôn giáo trầm trọng có 10 nước Á châu là Arập Sauđi, Yemen, Iran, Turkmenistan, Pakistan, Trung Quốc, Bhutan, Myanmar, Lào và Bắc Hàn. Ngoài ra có 15 nước Á châu trên tổng số 24 nước giới hạn tự do tôn giáo, trong đó có Việt Nam.Ngỏ lời trong dịp này Linh Mục Alliende ghi nhận sự kiện số các quốc gia vi phạm quyền tự do tôn giáo gia tăng trên thế giới. Nhưng việc tự do sống lòng tin tôn giáo vẫn luôn luôn là thước đo quyền tự do và công lý, cũng như tình hình dân chủ của một quốc gia. Cha Cervellera, thuộc Hiệp Hội Truyền Ggiáo Nước Ngoài Milano, gọi tắt là PIME, Giám đốc hãng thông tin Asianews, thì ghi nhận rằng cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay khiến cho các chính quyền tây âu coi việc bênh vực và bảo vệ các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo, là hàng thứ yếu. Bên cạnh các thái độ bạo lưc bất khoan nhượng tôn giáo thường có các lý do chính trị nữa, chẳng hạn như trong trường hợp của Ấn Độ. Tại đây các nhóm quyền bính muốn duy trì các thành phần thuộc giai tầng thấp kém hơn trong tình trạng nô lệ để tiếp tục khai thác bóc lột họ trên bình diện kinh tế. Thí dụ điển hình thứ hai là Trung Quốc, nơi nhà nước cộng sản lo sợ các vị lãnh đạo tôn giáo có thể hướng dẫn cuộc phản kháng của xã hội chống lại các lạm dụng của chế độ độc tài đảng trị.
Tuy nhiên trong năm thê thảm vì các cuộc bách hại tôn giáo này, người ta cũng thấy ló rạng một ánh sáng tích cực: đó là vai trò của dư luận công cộng gia tăng mạnh mẽ. Dân chúng tại nhiều nơi đã xuống đường biểu tình phản đối ngọn đuốc Thế Vận Hội Băc Kinh, một ngọn đuốc vấy máu của người dân Tây Tạng. Họ cũng biểu tình phản đối các cuộc đàn áp tàn bạo của nhà nước Myanmar chống lại các tăng ni phật tử, sinh viên học sinh và dân chúng.
Nhà báo Camille Eid, người Libăng, đã đề cập đến tình hình bách hại các kitô hữu và các tôn giáo thiểu số tại Irak. Mặc dù có các áp lực của Tây Âu tình hình đã không khả quan hơn. Ông tố cáo chiến dịch cưỡng bách kitô hữu bỏ gia cư làng mạc và thành phố của họ. Nhà báo Marco Politti, chuyên viên các vấn đề Vaticăng của nhật báo ”Cộng Hòa”, đánh giá cao công việc của tổ chức Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ trong việc thu thập các chứng cớ liên quan tới các vi phạm quyền tự do tôn giáo trong các năm qua.Bản tường trình năm 2008 cho thấy tình hình bách hại tự do tôn giáo gia tăng một cách tồi tệ tại Á châu. A Rập Sauđi là quốc gia tuyên bố mình hoàn toàn hồi giáo, vẫn tiếp tục cấm mọi biểu lộ lòng tin công khai không phải là hồi giáo, cấm mang sách Kinh Thánh, thánh giá, tràng hạt và cầu nguyện giữa nơi công cộng.Tại Bhutan tuy Hiến Pháp cho tự do tôn giáo, nhưng lại có khoản cấm chiêu dụ tín đồ. Ngoài ra chính quyền chỉ thừa nhận Phật giáo là quốc giáo và ngăn cấm các tôn giáo khác. Nhà nước không chỉ ngăn cấm không cho các thừa sai không phải là phật giáo vào Bhutan, mà cũng hạn chế hay không cho phép xây cất các nơi thờ tự không phải là phật giáo. Năm 2005 nhà nước Bhutan thiết định rằng luật Phật giáo được áp dụng cho tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo. Nhà nước cấm Giáo Hội Công Giáo cử hành thánh lễ hay cầu nguyện công khai, và không cấp chiếu khán cho các linh mục xin vào Bhutan. Được phép dâng thánh lễ tại tư gia, nhưng việc từ chối cấp chiếu khán cho các linh mục khiến cho phép này trở thành vô hiệu. Thế rồi mọi công dân đều bị bắt buộc phải mặc y phục như chủng tộc Ngalop trong các bàn giấy công, trong các tu viện, trường học và trong các lễ nghi chính thức.
Bên Iran Hồi giáo Shiít và chính quyền là một. Chỉ có 3 tôn giáo thiểu số được nhà nước hồi công nhận là Kitô giáo, Do thái giáo và đạo Zoroastro. Các tôn giáo thiểu số khác kể cả hệ phái hồi Sunnít, Hồi Ahmadi và Ba Hai cũng bị kỳ thị và thường phải gánh chịu nhiều bạo lực. Họ phải sống trong tình trạng tư pháp bấp bênh, trong khi các nhóm được thừa nhận thì sống trong tình trạng ”được che chở” và tất cả chỉ là các ”dhimmi” tức các công dân hạng hai, thường bị chèn ép bất công, thiếu các quyền lợi phát xuất từ sự tự do tôn giáo đích thật và bị bó buộc phải ủng hộ chính sách của nhà nước hồi. Giáo Hội công giáo đông phương Armeni và Canđê và Giáo Hội công giáo Latinh tương đối được tự do làm việc phụng tự, nghĩa là có các nhà thờ để cử hành các nghi thức tôn giáo, nhưng không thể bầy tỏ lòng tin bên ngoài các nơi thờ tự và cộng đoàn của mình. Mọi diễn tả bề ngoài và mọi hoạt động truyền giáo đều bị cấm ngặt và bị ghép tội chiêu dụ tín đồ. Cả khi tổng thống Ahmadinejad có khoe rằng thiểu số kitô được hưởng bình quyền như tín hữu hồi, nhưng các cộng đoàn kitô phải sống tình trạng ”ghetto”.
Tại Pakistan tuy Đảng Nhân Dân có khuynh hướng đời và hòa hoãn đã thắng cử, nhưng trong hai năm qua các vụ tấn công các nhóm tôn giáo thiểu số gia tăng. Chúng thường có hình thái “fatwa”, tức án lệnh của tòa án hồi giáo có quyền kết án tử cả các tín hữu không theo Hồi giáo. Các vụ tấn kích vũ trang các nơi thờ tự hay bắt cóc tín hữu các tôn giáo thiểu số cũng gia tăng. Một trong những dụng cụ người hồi hay lạm dụng để thanh toán tư thù là luật phạm thượng đối với Kinh Coran, có thể bị kết án tù chung thân, và nói phạm thượng tới Mahomet, có thể bị kết án tử hay tù chung thân. Ngoài ra còn có luật ”Hudood” phạt đánh đòn hay ném đá các tội ngoại tình, cờ bạc và uống rượu. Rất nhiều kitô hữu và tín hữu các tôn giáo thiểu số khác đã là nạn nhân của các luật bất công này.
Bên Ấn Độ các nhóm ấn giáo cuồng tín ngày càng gia tăng các cuộc bách hại các kitô hữu, đặc biệt trong bang Orissa. Nhưng hiện nay phong trào bách hại cũng lan sang các bang khác như Madhya Pradesh, và cả Kerala ở miền nam Ấn nữa. Trong bang Orissa từ cuối tháng 8 vừa qua đã có hơn 60 kitô hữu thiệt mạng, 18.000 người bị thương, 5.000 căn nhà bị đốt cháy, hàng chục nhà thờ và các trung tâm bác ái xã hội bị phá hủy, và hơn 50.000 tín hữu phải chạy trốn vào rừng hay tới các trại tị nạn.
Tại Trung Quốc nhà nước cộng sản tiếp tục bách hại các Giám Mục, Linh Mục Tu sĩ nam nữ và giáo dân thuộc Giáo Hội thầm lặng hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội hoàn vũ. Các Giám Mục Linh Mục tu sĩ và chủng sinh thuộc Giáo Hội công khai được nhà nước thừa nhận và cho tự do hoạt động cũng chịu nhiều sách nhiễu, và phải thường xuyên học tập, vì đa số các Giám Mục đã xin hiệp thông với Đức Giáo Hoàng. Chính quyền Bắc Kinh cũng bách hại đã man các tăng ni phật tử và nhân dân Tây Tạng.
Tại Bắc Hàn nhà nước cộng sản Bình Nhưỡng vẫn cấm đạo nghiêm ngặt. Người dân chỉ được phép tôn sùng hai cha con Chủ tịch nước là Kim Nhật Thành và Kim Long Nhật. Các kitô hữu và phật tử phải đăng ký trong các tổ chức do nhà nước kiểm soát. Những người không chịu đăng ký bị đàn áp dã man. Từ khi chế độ cộng sản nắm quyền tại Bắc Hàn hồi năm 1953 đến nay khoảng 300 ngàn tín hữu công giáo đã biến mất, cũng không còn linh mục và tu sĩ, vì các vị đã bị sát hại trong các cuộc bách hại. Nhà nước Bắc Hàn chia xã hội thành 51 giai tầng khác nhau. Các tín hữu không chịu gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước điều khiển thuộc các gia tầng thấp nhất và thường xuyên bị áp bức.
Tại Lào, tuy hiến pháp thừa nhận quyền tự do tôn giáo, nhưng sắc lệnh ban hành năm 2002 bắt buộc mọi hoạt động tôn giáo phải có phép của nhà nước. Chính quyền Lào đặc biệt đàn áp các kitô hữu Hmong. Hồi cuối tháng 7 năm ngoái 2007 đã có 13 tín hữu bị sát hại và các cuộc lùng bắt kitô hữu có sự tham dự của cả 200 binh sĩ cộng sản Việt Nam nữa.
Tại Myanmar tình hình tự do tôn giáo năm 2007 đã trở nên tồi tệ chưa từng thấy. Trong hai tháng 8 và tháng 9 năm ngoái hàng ngàn tăng ni đã xuống đường biểu tình ôn hòa chống lại các bất công và đường lối chính trị sắt máu của chế độ quân đội độc tài nắm quyền từ năm 1962 đến nay. Nhưng nhà nước đã tàn sát các tăng ni và những người biểu tình. Ủy Ban Quân Quản cầm quyền từ năm 1988 tới nay mà không có Hiến Pháp. Tự do tôn giáo không được luật lệ nào bảo vệ, và chính quyền kiếm soát nghiêm ngặt mọi nhóm xã hội và tôn giáo để đừng ai nói tới dận chủ và các quyền con người.
Tại Việt Nam chính quyền cộng sản liên tục tìm mọi cách hạn chế các quyền tự do, ăn cướp đất đai tài sản của các tôn giáo, sách nhiễu, gây khó dễ, kỳ thị đàn áp, vu khống mạ lị các vị lãnh đạo tôn giáo, hành hung và bắt giam các tín hữu và đả thương cả nhà báo quốc tế. Điển hình như trong vụ Tòa Khâm Sứ và Thái Hà trong các tháng qua, đã được các báo đài quốc tế rộng rãi đưa tin.
Bên Indonesia và Phi Luật Tân, các nhóm du kích quân hồi giáo cũng tấn công các kitô hữu, bắt cóc và sát hại các thừa sai kitô.
Tại Nigeria bên Phi châu, tuy Hiến Pháp thừa nhận quyền tự do tôn giáo nhưng từ năm 2000 12 trên tổng số 36 tiểu bang toàn nước đã áp dụng luật Sharia của Hồi giáo cho cả các tín hữu thuộc các tôn giáo khác. Các hành động kỳ thị tôn giáo và bất khoan nhượng thường xảy ra trong các bang có đông dân theo Hồi giáo: các giáo sư và sinh viên kiô bị vu khống nói phạm thượng chống Hồi giáo và phải bỏ trường. Chính quyền cũng cấm xây các nơi thờ tự và nghĩa trang kitô. Giới trẻ kitô bị cưỡng bách theo Hồi giáo còn những tín hữu hồi theo Kitô giáo bị đe dọa sát hại. Trong các ngày từ 18 đến 24 tháng giêng năm 2006 các vụ bạo động đã khiến cho 157 tín hữu thiệt mạng.
Tại Sudan sau khi Hiến Pháp tạm thời và Hiến Pháp cho miền Nam Sudan được chấp nhận năm 2005, có hai hệ thống luật tự do tôn giáo đươc áp dụng cho hai miền Nam Bắc Sudan. Trên lý thuyết tự do tôn giáo được bảo đảm cho tín hữu mọi tôn giáo trong 10 vùng miền Nam Sudan. Trong khi tại 16 vùng miền Bắc Sudan mọi người đều phải tuân giữ luật Sharia của Hồi giáo. Luật này phạt tử hình những ai bỏ Hồi giáo để theo một tôn giáo khác, chặt chân tay những ai ăn trộm ăn cướp, cấm lấy chồng không hồi giáo, và đánh đòn những ai uống rượu.
Bên Cuba Hiến Pháp năm 1976 tuyên bố Cuba là quốc gia vô thần và nhà nước cộng sản hạn chế tối đa việc thực hành đạo. Tuy nhiên cách đây 10 năm chuyến viếng thăm của ĐGH Gioan Phaolo II (21-25 tháng giêng 1998) đã khiến cho Cuba cởi mở hơn với thế giới. Nhưng chế độ vô thần thấm nhiễm tâm thức và cung cách sống của người dân nhất là giới trẻ, vì thế các tín hữu thực hành đạo cũng ủng hộ phá thai và ly dị.
Lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định tôn giáo là vấn đề nhạy cảm, tín đồ tôn giáo là lực lượng xã hội dễ lừa bịp, kích động để tạo dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng chống đối.
Ngay từ khi đặt chân vào Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã tính toán đến âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Chúng tìm cách mua chuộc, lôi kéo các giáo sĩ, tín đồ các tôn giáo để thực hiện mục đích chính trị phản động.Khi Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam (1975), viên Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn - Polga -  nói rằng: “Sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam thì lực lượng đấu tranh với cộng sản, chủ yếu là tôn giáo...”.
Lúc chúng ta bước vào công cuộc đổi mới, chủ nghĩa đế quốc tiếp tục lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện “diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam. Các thế lực thù địch tuyên truyền rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang còn mạnh, chưa thể chuyển hoá ngay được nội bộ. Vì vậy, để làm cho Cộng sản Việt Nam suy yếu, biện pháp hữu hiệu nhất là dùng vấn đề tôn giáo và dân tộc để phá hoại an ninh, làm cho Việt Nam suy yếu...”.
Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch nhìn nhận tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam và đang hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả về tinh thần và vật chất, phục vụ cho âm mưu sử dụng tôn giáo làm lực lượng thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” nhằm làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Chính sự hậu thuẫn này là nhân tố kích động số phần tử quá khích trong tôn giáo có thái độ thách đố với chính quyền, như: Chúng có ý đồ thành lập “Uỷ ban liên tôn chống cộng”, lôi kéo tín đồ, tụ tập đông người, xúi giục biểu tình, gây rối dẫn tới bạo loạn để chờ bên ngoài can thiệp.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn xác định vấn đề “tự do tôn giáo” là hướng ưu tiên chính trong chính sách đối với Việt Nam, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước. Quốc hội Mỹ đã ra một số nghị quyết và tổ chức nhiều cuộc điều trần về vấn đề tôn giáo ở việt Nam; xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia “đàn áp tôn giáo”! Gần đây, Uỷ ban Tự do tôn giáo của Mỹ tiếp tục công bố báo cáo đánh giá tiêu cực về tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Trong khi đó, bọn phản động lợi dụng tôn giáo trong nước, nhất là số cực đoan, quá khích trong công giáo, phật giáo Ấn Quang, phật giáo Hoà Hảo,... lợi dụng những diễn biến phức tạp trên thế giới, hoạt động ngày càng quá khích hơn; câu kết với các thế lực thù địch bên ngoài lôi kéo, tập hợp tín đồ để kích động biểu tình, gây rối, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam, tập trung vào một số hoạt động chủ yếu sau đây: Một là, tìm cách ủng hộ và thông qua các đạo luật mang tính pháp lý nhằm lợi dụng vấn đề tôn giáo để hoạt động can thiệp, chống phá. Hai là, dung túng, giúp đỡ lực lượng phản động trong tôn giáo người Việt ở hải ngoại tổ chức hoạt động chống Việt Nam. Ba là, hỗ trợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực đoan, phản động trong tôn giáo ở trong nước tổ chức các hoạt động chống phá.
Các cơ quan đại diện chính thức của một nước lớn tại Việt Nam có nhiều hoạt động công khai, trắng trợn nhằm ủng hộ cho các đối tượng cực đoan, phản động trong các tôn giáo. Đại sứ quán của họ tại Hà Nội và Tổng lãnh sự quán tại TP.Hồ Chí minh thường xuyên cử người đi các tỉnh, thành của Việt Nam để “nắm tình hình” sinh hoạt của các tôn giáo, nhưng thực chất là nhằm trực tiếp tiếp xúc, kích động các chức sắc và tín đồ tôn giáo gây áp lực đòi thả những tên đội lốt tôn giáo hoạt động chống phá bị ta bắt; “tiếp sức” cho các đối tượng đang có hoạt động chống đối.
Tình báo của họ thông qua một số chức sắc tôn giáo cực đoan, ngầm chỉ đạo Nguyễn Văn Lý, Chân Tín, Thích Quảng Độ, Lê Quang Liêm ra các “lời kêu gọi” phản động để “nắn gân” cộng sản Việt Nam sau Đại hội X. Nhóm thiên chúa giáo cực đoan liên tục lợi dụng tranh chấp đất đai để hoạt động đấu tranh chống chính quyền. Đặc biệt, ở một số địa phương từ tranh chấp đất đai, chúng lợi dụng người cầm đầu tổ chức tôn giáo ở đó để kích động, xô đẩy giáo dân vào cuộc đấu tranh mang màu sắc chính trị, gây mất ổn định chính trị, tạo cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp.
Các thế lực thù địch đã chỉ đạo cho một số đối tượng cực đoan, núp dưới danh nghĩa những nhà truyền đạo, như “mục sư”, “tình nguyện viên”,... để đi sâu vào nội bộ quần chúng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, nhằm lừa phỉnh, dụ dỗ, xúi giục, kích động các tín đồ bỏ lao động sản xuất để tham gia hoạt động biểu tình chống đối chính quyền. Được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hậu thuẫn, bọn phản động trong các tôn giáo ở Tây Nguyên ra sức lợi dụng việc Đảng và Nhà nước ra thực hiện chủ trương xoá các tổ chức Tin Lành trái phép để vu cáo chính quyền Nhà nước Việt Nam “Vi phạm tự do tôn giáo”, kêu gọi “cầu nguyện cho Tin Lành Tây Nguyên”, đồng thời kích động các hoạt động chống đối.
Hiện nay và trong thời gian tới, chủ nghĩa đế quốc  và các thế lực thù địch đã, đang và sẽ tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ mọi mặt để phát triển đạo trong các vùng dân tộc ít người, bao gồm cả phát triển các đạo giáo mới và cả số người theo đạo, biến các tổ chức  và hoạt động tôn giáo thành các tổ chức và hoạt động chính trị chống lại cách mạng Việt Nam. Chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền để nhân dân thấy rõ âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.    
Khái quát tình hình, thực trạng của tôn giáo
Tình hình, thực trạng
- Từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn luôn biến động phản ánh sự biến đổi của lịch sử. Một tôn giáo có thể hưng thịnh, suy vong, thậm chí mất đi nhưng tôn giáo luôn luôn song hành cùng với đời sống của nhân loại. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội sẽ còn tồn tại lâu dài.
- Về đánh giá thực trạng của tôn giáo, có nhiều ý kiến khác nhau. Tựu trung lại có ba ý kiến sau:
+ Tôn giáo đang khủng hoảng, suy tàn: những người đánh giá theo quan niệm này cho rằng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ.... đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân sẽ được cải thiện, tôn giáo sẽ bị suy thoái dưới nhiều hình thái khác nhau. Họ cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội không có tương lai
+ Tôn giáo Tây Âu suy tàn nhưng tôn giáo ở các nước khác đang phát triển: đánh giá này xuất phát từ thực tế tôn giáo ở Tây Âu. Sự suy giảm biểu hiện rõ nhất trong lĩnh vực thực hành tôn giáo: đi lễ và tuân thủ một số nghi lễ, niềm tin giảm sút (nhạt đạo thậm chí khô đạo). Tuy nhiên cũng có người chỉ thừa nhận sự suy giảm ấy chỉ diễn ra ở trung tâm châu Âu. Trong khi đó tôn giáo ở các nước khác ngoài châu Âu, đặc biệt là các nước đang phát triển
+ Tôn giáo, tín ngưỡng đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia, châu lục: cách đánh gia này được nhiều người thừa nhận. Thực tế là trong mấy thập kỷ gần đây, tín ngưỡng, tôn giáo đang phục hồi và phát triển ở nhiều quốc gia, châu lục. Số lượng tín đồ hiện nay chiếm khoảng 3/4 dân số trên thế giới (có số liệu là 5/6).
Nguyên nhân
Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng tôn giáo là một điều không đơn giản. Tuy nhiên có thể nêu lên một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng gay gắt: chiến tranh lạnh kết thúc nhưng hoà bình không đến với nhân loại, trên thế giới hiện nay đang xảy ra nhiều mâu thuẫn, xung đột về chính trị, kinh tế, xã hội và cả quân sự. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn giữa các quốc gia trên thế giới và khu vực.
- Trật tự thế giới đang xáo trộn, khó định trước: thế giới hai cực được thay bằng thế giới đơn cực do Mỹ chi phối và đang tiềm ẩn sự ra đời của trật tự thế giới đa cực với các cường quốc có tiềm lực mạnh về kinh tế, chính trị và quân sự...
- Khủng hoảng niềm tin vào mô hình xã hội tương lai: từ khi xã hội có giai cấp và nạn bóc lột giai cấp, con người đã ước mơ về một xã hội bình đẳng, công bằng, tự do và bác ái... tôn giáo chính là sự phản ánh nguyện vọng ấy của nhân dân dù đó là sự phản ánh một cách hư ảo. Khi chủ nghĩa xã hội hiện thực xuất hiện, sự hướng về thiên đường đã chuyển sang hướng về chủ nghĩa xã hội, góp phần tạo ra sự suy giảm của tôn giáo. Tuy nhiên, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực bị sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô trong khi chủ nghĩa tư bản không phải là lý tưởng mà con người vươn tới nên con người có thể đi tìm chỗ dựa tinh thần nơi tôn giáo
- Những hậu quả tiêu cực của sự phát triển của khoa học và công nghệ mới: Cuối thế kỷ XX, nhân loại có những thành tựu kỳ diệu trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên sự phát triển ấy cũng để lại những hậu quả nặng nề mà nhân loại đang phải gánh chịu. Đó là sự suy thoái về môi trường, sinh thái như phá rừng, ô nhiễm, tầng ôzôn bị thủng, trái đất nóng dần lên... bên cạnh đó là các bệnh dịch mới xuất hiện (AIDS, SARS...) làm cho tiên tri về “nạn hồng thủy”, “ngày tận thế”...lại có dịp phát triển, làm xuất hiện nhiều tôn giáo mới... 
Những xu thế chủ đạo của đời sống tôn giáo
Các diễn biến trên thể hiện sự phức tạp tromg đời sống tôn giáo với nhiều xu thế diễn ra đan chéo rất khó phân định ngay trong bản thân từng tôn giáo. Tuy nhiên có thể quy vào 4 xu thế sau đây:
Xu thế toàn cầu hóa
- Toàn cầu hóa là sự mơ tưởng của tất cả các tôn giáo dù là những tôn giáo thế giới có bề dày lịch sử lâu đời hay chỉ là những hiện tượng tôn giáo mới ra đời gần đây. Chẳng hạn như đạo Cao Đài ở Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời đã tuyên bố sẽ là tôn giáo của nhân loại.
- Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng sự tồn tại và phát triển của một tôn giáo phụ thuộc vào sự bành trướng của một thế lực chính trị có trong tay một tiềm lực kinh tế nhất định.
- Trong thời đại ngày nay, vấn đề toàn cầu hoá tôn giáo chủ yếu phụ thuộc vào chính sách bá quyền của một số cường quốc, muốn gắn vấn đề nhân quyền với tự do tôn giáo cho từng quốc gia, dân tộc, tộc người để tìm cách can thiệp vào các nước không chịu đi theo con đường mà các cường quốc đã vạch ra cho họ
- Tính toàn cầu hóa dẫn đến sự có mặt của hầu hết các tôn giáo lớn nhỏ trong một quốc gia. Từng tôn giáo đều muốn và cố gắng có mặt trên khắp địa cầu.
Xu thế đa dạng hóa
- Từ xu thế toàn cầu hóa dẫn đến xu thế đa dạng hóa trong tôn giáo. Điều này phản ánh được nguyên tắc của thời đại: thống nhất trong đa dạng.
- Ngày nay, dân trí được nâng cao, không gian xã hội của cá nhân đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, của khu vực. Con người không chỉ tiếp cận với các tôn giáo truyền thống mà còn với các tôn giáo khác. Sự tiếp cận ấy không hề thụ động mà còn có sự phê phán, tiếp thu. Từ đó dẫn đến sự phân hóa tín đồ các tôn giáo thành 3 loại: khô đạo, nhạt đạo, đậm đạo và nảy sinh hiện tượng song hành tôn giáo trong một con người. Nghĩa là một cá nhân cùng một lúc theo nhiều tôn giáo khác nhau, ngay cả ở những nước vốn có truyền thống độc thần. Trong điều kiện đó từng tôn giáo cũng có sự phân rẽ thành các giáo phái, thậm chí có giáo lý xa lạ với giáo lý ban đầu. Nội bộ các tôn giáo bị phân rẽ thành 3 bộ phận: bộ phận toàn thống, bộ phận bảo thủ cực đoan, bộ phận ôn hòa.
Xu thế thế tục hóa
- Hướng chủ yếu của xu thế này là những hành vi nhập thế của mọi tôn giáo bằng cách tham gia vào những hoạt động trần tục phi tôn giáo như xã hội, đạo đức, giáo dục, y tế… nhằm góp phần cứu nhân độ thế.
- Xu thế thế tục hóa cũng biểu hiện trong cuộc đấu tranh của bộ phận tiến bộ trong từng tôn giáo muốn xóa bỏ những điểm lỗi thời trong giáo lý, những khắt khe trong giáo luật, muốn tiến tới sự đoàn kết giữa các tín đồ các tôn giáo khác nhau.
- Xu thế thế tục hóa biểu hiện ở vai trò của tôn giáo bị giảm sút, đặc biệt là ở các nước công nghiệp, nhất là ở các cư dân thành thị và tầng lớp thanh niên. Họ cho rằng cuộc sống bản thân được quyết định chủ yếu là là tự thân, ít phụ thuộc và không phụ thuộc vào thần linh.
- Xu thế thế tục hóa còn biểu hiện ở chỗ con người dường như ra khỏi tôn giáo. Một số tín đồ vẫn tiến hành những nghi lễ và cầu xin, có khi còn hành hương nhưng lại không hẳn theo giáo lý hay giáo luật đã được định sẵn.
- Xu thế thế tục hóa cũng có mặt trái, thể hiện rất rõ trong việc tham gia vào các hoạt động chính trị của một số tổ chức tôn giáo nhằm bảo vệ trực tiếp hay gián tiếp quyền lợi của các thế lực chính trị phản động.
Xu thế dân tộc hóa
- Biểu hiện của xu thế này là hướng trở về với tôn giáo truyền thống, phổ biến ở các nước đang phát triển, lan rộng sang cả châu Âu. Các tôn giáo dân tộc không có tính phổ quát nhưng lại gắn chặt và bền vững với từng dân tộc.
- Hiện nay có hiện tượng các tôn giáo được truyền bá một cách nhanh chóng sang các quốc gia khác với nhiều cách thức khác nhau vì vậy tôn giáo dân tộc hay tôn giáo truyền thống được coi là một thứ vũ khí để bảo vệ bản săùc của dân tộc trước sự uy hiếp của các tôn giáo thế giới, thường được các thế lực chính trị sử dụng như một phương tiện để đồng hóa văn hóa, đồng thời là chỗ dựa để để các tôn giáo ngoại sinh được dân tộc hóa.
Tóm lại: Bốn xu thế trình bày ở trên trong thực tế đan quyện vào nhau, xu thế nọ là hệ quả của xu thế kia, ta chỉ có thể phân tích rành rẽ trong từng trường hợp ở từng thời điểm, từng nơi cụ thể. Nhưng trong các xu thế ấy thì hiện nay xu thế thế tục hoá là nổi trội hơn cả và biểu hiện của nó rất phong phú và rất đa dạng.
THIÊN CHÚA ALLAH CỦA ĐẠO HỒI
Năm 610, tại thành phố Mecca thuộc xứ Arabia (Ả-rập), một thương gia trạc tuổi 40 tên là Muhammad Abdallah bỗng nhiên cảm thấy mình có sứ mạng của một vị thánh tiên tri (prophet) tương tự như Isaiah, Jeremiah hoặc Ezekiel của đạo Do Thái.  Vốn là một người thuộc bộ lạc Quraysh (Qu-rê) theo đạo cổ truyền Ả Rập, Muhammad (Mu-ha-mét) thường cùng gia đình hay bạn bè leo lên núi Hira để cầu nguyện trong tháng Ramadan, tức tháng 9 hàng năm theo lịch Ả Rập.  Trong tháng này, người Ả Rập thường cầu nguyện từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn và thường làm những việc phúc đức như săn sóc kẻ bệnh tật, bố thí thức ăn cho người nghèo.  Bộ lạc Quraysh, cũng tương tự như bộ lạc Bedouin hay các bộ lạc cổ Do Thái, sinh sống chủ yếu bằng nghề du mục.  Đến thế kỷ 6 sau Công Nguyên, bỗng nhiên bộ lạc này bỏ hẳn nghề du mục và chuyển sang nghề buôn bán.  Sự thành công rực rỡ trên thương trường của bộ lạc Quraysh đã biến Mecca thành một trung tâm thương mại quan trọng bậc nhất tại vùng Arabia.  Kinh thánh Koran kể rằng:  Bộ lạc Quraysh đã trở thành giàu có vượt xa mọi mơ ước hão huyền nhất của họ (They were rich beyond their wildest dream).  Một thế kỷ sau, tức vào thời Mahummad, dân Quraysh mãi mê chạy theo bạc tiền, chỉ lo làm giàu bằng đủ mọi thủ đoạn và hoàn toàn vứt bỏ mọi giá trị của tôn giáo cổ truyền Ả Rập.  Xã hội Ả Rập trở nên hỗn loạn và phân hóa. Muhammad tự cảm thấy cần phải có một giáo lý tôn giáo mới để thống nhất các dân tộc Ả Rập thành một cộng đồng vững mạnh.  Mộng ước của Muhammad đã thành công vượt xa sự dự tưởng của mọi người:  Chỉ trong một thời gian gần một thế kỷ, giáo lý Hồi Giáo của Muhammad đã bành trướng thành một đế quốc rộng lớn, trải dài từ Hy Mã Lạp Sơn đến chân núi Pyrénées thuộc miền Nam Châu Âu!
Trọng tâm tín ngưỡng của đạo Hồi là Thiên Chúa.  Tiếng Ả Rập "Allah" có nghĩa là Thiên Chúa Cao Cả (The High God).  Trước khi có đạo Hồi, phần đông người Ả Rập đã chịu ảnh hưởng đạo Do Thái Nguyên Thủy của Abraham (A-bờ-ra-ham).  Do đó, người Ả Rập đã sẵn có từ lâu ý niệm về Thiên Chúa (God/Allah).
Sử gia Sezonenos, người Palestine theo đạo Kitô sống trong thế kỷ 5, đã viết: Người Ả Rập ở Syria và nhiều nơi khác thuộc Bắc Phi thường tự xưng là những tín đồ đạo chính thống của Abraham (The authentic religion of Abraham).  Trong số 3 người thân cận cộng tác với Muhammad lập ra đạo Hồi có Waraqua theo đạo Kitô và Zayd theo đạo Do Thái Mai-sen.
Theo kinh sách Hồi Giáo, vào năm 610, Zayd và Muhammad lên núi Hira cầu nguyện nhiều tháng. Tháng thứ bảy, trong lúc Zayd đang cầu xin Thiên Chúa ban ơn mặc khải thì vừa lúc Muhammad tỉnh giấc mơ sau lúc ngủ mê.  Muhammad kể cho Zayd biết một thiên thần đã hiện ra và ra lệnh cho ông ta phải thuật lại các mệnh lệnh của Thiên Chúa.  Sau 3 lần từ chối, cuối cùng Muhammad phải tuân lệnh Chúa kể lại cho mọi người biết các điều Chúa phán dạy cùng ông. Đó là sự mặc khải (revelation) của Thiên Chúa dành riêng cho một mình tiên tri Muhammad được biết mà thôi.
Muhammad bắt đầu viết sách kể lại giấc mơ của mình như sau:  Chúa phán:  "Hãy kể lại mọi sự nhân danh Đấng Quan Phòng của con, đấng đã tạo dựng loài người từ những tế bào mầm sống.  Hãy kể lại, vì Đấng Quan Phòng của con là Đấng Trọn Tốt, Trọn Lành là Đấng đã dạy loài người biết xử dụng ngòi bút và đã dạy loài người biết được những điều nó không biết".
Trước Muhammad, lời của Thiên Chúa (Word of God) chỉ được truyền xuống thế gian bằng tiếng Hebrew là ngôn ngữ cổ Do Thái. Từ thế kỷ 2 TCN, xứ  Syria phát triển mạnh về kỹ thuật và thương mại trong toàn vùng Địa Trung Hải tạo thành một ngôn ngữ phổ thông mới được xử dụng trong nhiều quốc gia, đó là ngôn ngữ Aramic. Vào thời của Jesus, dân Do Thái không còn nói tiếng Hebrew nữa mà xử dụng tiếng Aramic của Syria làm ngôn ngữ chính. Do đó, các Lời Chúa được "trực tiếp truyền xuống" thế gian qua miệng của Chúa Jesus bằng tiếng Aramic . Đến thế kỷ 7, với sự xuất hiện của kinh Koran, lần đầu tiên các Lời Chúa được truyền xuống thế gian bằng tiếng Ả Rập!  Chữ Koran phiên âm từ tiếng Ả Rập "Quran" có nghĩa là sự thuật lại (Recitation).
Theo Muhammad thì ông được diễm phúc đón nhận sự mặc khải của Thiên Chúa lần đầu tiên trong lúc ông cầu nguyện cùng với Zayd trong một hang đá rồi ông có ý định nhảy từ trên núi cao xuống vực sâu để tự tử.  Bỗng nhiên thiên thần Gabriel hiện ra dưới hình thức một người đàn ông lơ lửng trước mặt. Thiên thần can ngăn không cho Muhammad tự tử và nói:  "Hỡi Muhammad, ngươi là tông đồ của Thiên Chúa.  Ta là thiên thần Gabriel đây".  Muhammad ngạc nhiên, đứng ngây ra ngắm nhìn vị thiên thần sáng như một vầng hào quang.  Chỉ trong thoáng chốc, Muhammad không dám nhìn nữa và quay mặt lại thì thiên thần đã biến mất"!  (A life of Muhammad - p. 106).
Sau biến cố trên, Muhammad chạy về nhà kể lại câu chuyện cho vợ nghe.  Vợ ông là bà Khadija lớn hơn ông 15 tuổi và cũng là một thương gia khét tiếng giầu có tại Mecca thời đó.  Muhammad coi vợ gần như một bà mẹ, ông năn nỉ bà che chở và khuyên bảo.  Bà Khadija vội vàng dẫn chồng đến nhà Waraqua là anh họ (cousin) của bà.  Waraqua, vốn theo đạo Kitô và rất thông thạo về kinh thánh Tân Ước. Waraqua nói cho vợ chồng Muhammad biết rằng:  Muhammad đã nhận được ơn mặc khải từ Thiên Chúa của Abraham, của Moses và của Jesus. Muhammad đã được chọn làm đặc sứ thiêng liêng (the divine envoy) của Thiên Chúa ở nơi các dân tộc Ả Rập.  
Từ đó, Muhammad bắt đầu viết ra những điều mà ông cho là "được Thiên Chúa mặc khải", nói đúng ra là kể lại "những lời của Chúa" đã nói riêng với ông, cũng tương tự như Kinh Thánh của đạo Do Thái ghi lại những "lời Chúa" đã "nói riêng" với Abraham hoặc Moses!  Tuy nhiên, khác với Moses được Thiên Chúa mặc khải một lần duy nhất trên núi Sinai, Muhammad được Thiên Chúa mặc khải liên tục suốt 23 năm!  Điều đó có nghĩa là Muhammad đã viết kinh Koran trong 23 năm ròng rã, phần lớn dưới dạng ca vè.  Năm 1988, nhà văn Anh gốc Ấn Salman Rushdie đã viết cuốn tiểu thuyết mỉa mai đạo Hồi và gọi kinh Koran là "Những vần thơ của quỉ" (Satanic Verses).  Đọc kinh Koran, người ta sẽ có cảm tưởng như đọc nhật ký vì các đoạn sách đều được ghi rõ ngày tháng. Chúng ta có thể dễ dàng theo dõi các diễn tiến tư tưởng của Muhammad và cũng dễ dàng kiểm chứng các sự kiện lịch sử liên quan đến giáo lý đạo Hồi.  Kinh Koran đề cập đến rất nhiều đề tài, nhưng cũng giống như đạo Do Thái và đạo Kitô, trọng tâm của kinh Koran nói về Thiên Chúa, thiên đàng, hỏa ngục, ngày tận thế và sự phán xét cuối cùng của Thiên Chúa đối với người sống và kẻ chết .
Muhammad bắt đầu giảng đạo cho dân tộc Quraysh ở Mecca.  Công việc giảng đạo của ông tương đối dễ dàng vì không phải chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa.  Vào thời đó, hầu hết các dân tộc Ả Rập đều tin có Thiên Chúa tương tự như niềm tin của các tín đồ đạo Do Thái và đạo Kitô.  Do đó, đối với người Ả Rập, không có vấn đề vô thần (atheism).  Trong kinh Koran, khi Muhammad nói đến các kẻ không tin Chúa (unbelievers) là có ý nói đến những kẻ vô ơn Chúa (one who is ungrateful to God) chứ không có ý nói đến những kẻ vô thần.  Điều quan trọng nhất của đạo Hồi là hoàn toàn vâng phục theo ý của Chúa.  Mọi ý của Chúa đều đã được Muhammad viết ra trong kinh Koran.  Trong thực tế, vâng theo ý Chúa là vâng theo mọi điều trong kinh Koran!  Kinh Koran xác định: Tín đồ Hồi Giáo là người hiến trọn đời mình cho Thiên chúa (Muslim was one - man or woman - who has surrendered his or her whole being to God).
Cũng tương tự như đạo Do Thái và đạo Kitô, người Hồi Giáo tin có quỉ Satan, tiếng Ả Rập gọi là Shaitan.  Nhưng khác với hai tôn giáo trên, kinh Koran khẳng định Satan là con quỉ biết phục thiện và sẽ được Thiên Chúa tha tội vào ngày phán xét cuối cùng!
Khác với Kitô Giáo là một tôn giáo rất sợ khoa học, đạo Hồi quan niệm mọi sự trên thế gian đều là những dấu hiệu (signs) của Thiên Chúa.  Họ khuyến khích nghiên cứu khoa học để tìm hiểu những tín hiệu (messages) của Thiên Chúa tiềm ẩn trong mọi dấu hiệu đó.  Người Hồi Giáo rất hâm mộ khoa học vì họ tin rằng khoa học là phương tiện tốt nhất giúp con người khám phá thế giới và vũ trụ để hiểu biết thêm về quyền năng của Thiên Chúa. 
Hồi Giáo phủ nhận Thiên Chúa Ba Ngôi của Kitô Giáo và coi đạo Kitô là "ngụy Thiên Chúa Giáo".  Vì đạo này không thật sự tôn thờ Một Thiên Chúa Duy Nhất theo đúng ý nghĩa của Nhất Thần Giáo (Monotheism).  Kinh Koran khẳng định chỉ có Một Thiên Chúa là đấng tối thượng, duy nhất, sinh ra từ không và là nguồn gốc mọi vật (Allah is the ultimate and unique reality.  He is the One God.  The Eternal, the Uncaused Cause of all being - Koran: 112).
Quan niệm về Thiên Chúa của đạo Hồi tương đồng với quan niệm về Thiên Chúa của đạo Do Thái.  Muhammad coi thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi của Ki Tô Giáo là một sự nhục mạ Thiên Chúa (blasphemous) và coi giáo điều "Chúa Cha đẻ ra Chúa Con" là chuyện bậy bạ nhảm nhí.  Do đó, Muhammad viết rõ trong kinh Koran: "Thiên Chúa không đẻ con và cũng không được ai đẻ ra.  Không có gì có thể so sánh được với Thiên Chúa" (He begets not and neither is he begotten.  There is nothing that could be compared to Him  -  Koran 112).
Hồi Giáo thù ghét đạo Kitô nhưng lại rất tôn trọng đức Jesus.  Họ không tin Jesus là Kitô (Chúa Cứu Thế) mà chỉ coi Jesus như một tiên tri của Thiên Chúa tương tự như Abraham, Moses, Ismael, Isaac, Jacob.  Họ cũng không tin Jesus là người đã lập ra đạo Kitô.  Đối với Hồi Giáo, tất cả các thánh tiên tri, kể cả Jesus, đều là các tín đồ Hồi Giáo (muslims) vì họ là những kẻ hoàn toàn vâng theo ý Thiên Chúa.
Kinh Koran (2:135-136) viết:  "Abraham là tín đồ Hồi Giáo đầu tiên biết phục tùng Thiên Chúa.  Đức tin của chúng ta là đức tin của Abraham.  Chúng ta tin Thiên Chúa và tin những gì Chúa đã phán truyền cho Abraham, Ismael, Isaac, Jacob và con cháu của các ngài.  Chúng ta tin những gì Thiên Chúa đã xác minh với Moses và Jesus".  (Abraham had been the first muslim to surrender to God.  Ours is the creed of Abraham.  We believe in God and in that which has been bestowed upon Abraham, Ismael, Isaac, Jacob and their descendants, and that which has been vouched to Moses and Jesus).
Muhammad viết kinh Koran từ năm 610.  Hai mươi năm sau, tức vào năm 630, Muhammad trở thành giáo chủ kiêm thủ lãnh toàn thành phố Mecca.  Ông xử dụng nơi đây làm thánh địa bành trướng đạo Hồi.  Năm 632, sau một cơn bệnh bất ngờ, Muhammad từ trần trước sự ngỡ ngàng của đông đảo tín đồ.  Zayd là một tín đồ đạo Do Thái và là bạn chí cốt của Muhammad được tôn lên làm giáo chủ kế nhiệm.
Trên phương diện lý thuyết, mọi tôn giáo đều khuyên con người làm lành lánh dữ.  Trên thực tế, Hồi Giáo cũng như Kitô Giáo đã bị lạm dụng và trở thành một tôn giáo hiếu chiến.  Hầu hết các nhà lãnh đạo các quốc gia Hồi Giáo đã trở thành các thần chiến tranh (Warlords).  Nạn đa thê là chuyện phổ biến trong các nước đạo Hồi. Phụ nữ bị coi là những công dân hạng hai nếu không muốn nói là những nô lệ tình dục.  Bọn đàn ông quyền thế và giàu có thường lập các cung viện (harems) chứa nhiều gái đẹp để tha hồ hành lạc.  Việc sát hại các bé gái sơ sinh (female infanticide) được coi là chuyện thông thường và gần như đã trở thành tục lệ.  Phụ nữ mỗi khi bước chân ra khỏi nhà bị bắt buộc phải dùng mạng vải che mặt.  Tục lệ này khởi đầu từ lúc Muhammad lên làm giáo chủ, các bà vợ của Muhammad dùng mạng che mặt để biểu lộ địa vị (status) của họ.  Sau này, tục lệ che mạng đã trở thành một khổ hình cho các phụ nữ Hồi Giáo.
Trong tác phẩm A History of God, (trang 162), tác giả Karen Amstrong nhận định: "Hồi Giáo ngày nay bắt đầu tranh luận về bản chất của kinh Koran.  Ý nghĩa của bản văn này có thực là những lời của Thiên Chúa không?  Nhiều người Hồi Giáo nhận ra kinh Koran là nhảm nhí cũng như những người Kitô coi chuyện Ngôi Lời Nhập Thể (nhập tràng) là nhảm nhí vậy." (Now muslims would begin to debate the nature of the Koran: in what sense was the text really the words of God?  Some muslims found Koran as blasphemous as those Christians who had been scandalized by the idea that Jesus had been the Incarnate Logos).





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét