MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................. 3
1.
Lý do chọn đề tài........................................................................................................ 3
2.
Lịch sử vấn đề............................................................................................................. 5
3.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 8
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................ 8
5.
Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 8
6.
Đóng góp của đề tài.................................................................................................... 8
7.
Bố cục của đề tài......................................................................................................... 9
PHẦN
NỘI DUNG........................................................................................................... 10
Chương
1. Khái quát quan hệ Trung Quốc - Liên Xô trước năm 1959................ 10
1.1. Khái quát bối cảnh quốc tế
từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 đến cuối thập niên 50 thế kỉ
XX 10
1.2.
Khái quát quan hệ Trung - Xô (1949 - 1959)....................................................... 14
1.2.1. Những mối quan hệ tốt đẹp giai đoạn 1949 - 1956........................................ 14
1.2.2. Những bất đồng kín đáo 1956 - 1959............................................................... 18
1.3. Nhận xét về quan hệ Trung -
Xô trước năm 1959................................................ 21
Chương
2. Quan hệ Trung Quốc
- Liên Xô giai đoạn 1959 - 1979........................ 23
2.1. Bối cảnh quốc tế giai đoạn 1959 - 1979................................................................ 23
2.2. Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô thời kì sóng gió
và chia rẽ (1959 - 1979)....... 26
2.2.1. Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô giai đoạn
1959- 1969.................................. 26
2.2.2. Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô giai đoạn
1969- 1979.................................. 33
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ Trung Quốc - Liên Xô (1959 -
1979)... 39
2.3.1. Yếu tố Mỹ............................................................................................................. 39
2.3.2. Yếu tố Việt Nam .................................................................................................. 46
2.3.3. Tư tưởng nước lớn của cả Trung
Quốc
và Liên Xô........................................ 50
PHẦN
KẾT LUẬN........................................................................................................... 58
TÀI
LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 60
PHỤ
LỤC
PHẦN MỞ
ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung
Quốc và Liên Xô là hai nước láng
giềng khổng lồ có chung đường biên giới dài hàng nghìn km, có nền văn hoá, văn minh lâu đời.
Hai nước đều có tinh thần dân tộc rất mạnh mẽ. Lịch sử quan hệ hai nước có
nhiều thăng trầm. Đầu thế kỷ XX, sau Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) và
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành công, hai nước trở thành đồng minh tự
nhiên cùng chung mục tiêu chống đế quốc can thiệp. Cách mạng Trung Quốc thành
công năm 1949 có sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô. Liên Trung - Xô Quốc trở thành
đồng minh chiến lược, có quan hệ hợp tác toàn diện trên cơ sở cùng ý thức hệ và
cơ sở pháp lý là Hiệp ước đồng minh tương trợ (14-2-1950). Tuy nhiên, quan hệ
đoàn kết Trung - Xô chỉ kéo dài được một thập kỷ.
Quan hệ
giữa hai nước có lịch sử phát triển tương đối phức tạp, từng là “đồng minh chiến lược”, sau đó trở
thành đối thủ của nhau, thậm chí có lúc là thù địch trong suốt gần
ba thập niên từ năm 1960 đến năm 1980, rồi lại bình thường hóa quan hệ
với nhau để cùng hợp tác và phát triển. Mối quan hệ đầy phức tạp
và bất ổn trong giai đoạn này không chỉ làm tổn hại đến quan hệ
giữa hai nước, gây bất ổn cho hệ thống Xã hội chủ nghĩa (XHCN), mà
còn tạo nên những mối đe dọa cho hòa bình, an ninh khu vực. Sự bất
ổn này đã làm cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương không thể yên bình
như tên gọi của nó, mà luôn đứng trước nguy cơ bão táp, thậm chí có
lúc phải đối mặt với “sóng thần”.
Cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai vừa mới kết thúc không lâu, thì ngay sau đó
thế giới lại phải chứng kiến một cuộc chiến mới chưa từng có trong
tiền lệ, đó là cuộc chiến tranh
không nổ súng, không đổ máu, nhưng luôn đặt trong tình trạng căng thẳng
đối đầu giữa hai hệ tư tưởng Tư bản chủ nghĩa (TBCN) và XHCN mà
người ta hay gọi là “chiến tranh
lạnh”. Cuộc chiến không chỉ thể hiện sự đối đầu giữa hai hệ
thống TBCN và XHCN, mà còn là sự đối đầu căng thẳng, gay gắt trong
nội bộ XHCN, cụ thể là sự bất đồng, căng thẳng dẫn đến cuộc xung
đột biên giới trong quan hệ giữa hai nước Trung Quốc và Liên Xô giai
đoạn cuối thập niên 50 - đầu thập niên 80 của thế kỉ XX.
Sau mười năm xây dựng mối quan hệ “đồng minh chiến lược”,từ năm 1959 đến
năm 1969, quan hệ Trung - Xô đã từng bước rạn nứt và dần tan vỡ. Sự
bất đồng ban đầu chỉ xoay quanh vấn đề lí luận, nhưng đến năm 1960 nó
đã chính thức được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Từ năm 1961 - 1965, những bất đồng giữa hai Đảng ngày càng lớn và sự
đấu tranh gay gắt giữa hai nước không ngừng tăng lên, đặc biệt là sau
cuộc gặp gỡ giữa những nhà lãnh đạo của hai Đảng ở Matxcơva (từ ngày
5 - 20-7-1963). Trong bầu không khí căng thẳng, bế tắc cuộc chiến về
chính trị giữa hai nước chính thức bắt đầu, công kích lẫn nhau thông
qua thư từ báo chí; chia rẽ Đảng phái, chống đối lẫn nhau. Đến cuối
thập niên 60 thế kỉ XX, những bất đồng, căng thẳng trong quan hệ giữa
hai nước không chỉ diễn ra giữa hai Đảng, cũng không dừng lại ở công
kích, chống đối lẫn nhau nữa, mà nó ngày càng diễn ra phức tạp: điển
hình là những cuộc xô xát nhỏ đã diễn ra ở Matxcơva và Bắc Kinh lôi
kéo nhiều học sinh, công nhân và quần chúng tham gia. Giữa lúc đó, sự
kiện Liên Xô tiến đưa quân vào Tiệp Khắc năm 1968 càng làm cho Trung
Quốc cảnh giác hơn. Trung Quốc đã tố cáo Liên Xô là “Đế quốc xã hội” và cũng từ đây
vấn đề biên giới giữa hai nước được đẩy lên đến đỉnh cao.
Sự đối đầu giữa hai nước XHCN lớn nhất ở
thời điểm này vượt ra ngoài sự mong chờ của Mỹ, là cơ hội vàng để Mỹ
kéo Trung Quốc về phía mình, tăng thêm đồng minh và sức mạnh nhằm
chống lại Liên Xô. Về phía Trung Quốc với tư tưởng “kẻ thù của kẻ thù là bạn”, Trung Quốc đã nhanh chóng
ngã về phía Mỹ, chấm dứt thời kì thực hiện chính sách đối ngoại “giương cung bắn cả hai phía” của
những năm 1960, chuyển hướng sang thực hiện chính sách đối ngoại “hợp tung” bắt tay với Mỹ, dựa vào
Mỹ để phát triển và chống Liên Xô.
Quan hệ Trung - Xô càng căng thẳng bao nhiêu,
thì quan hệ Trung - Mỹ càng phát triển bấy nhiêu . Từ tháng 8-1973,
sau Đại hội X Đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ trương chống Liên Xô của
đường lối đối ngoại Bắc Kinh đã được xác nhận về mặt pháp lý. Chủ
tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã đưa ra và nhấn mạnh thuyết “Ba thế giới” (Liên Xô và Mỹ là
thế giới thứ nhất, lực lượng trung gian: Canađa, Nhật Bản, Châu Âu là
thế giới thứ hai, còn Trung Quốc là thế giới thứ ba). Thực chất học
thuyết thế giới thứ ba của Mao Trạch Đông chỉ được dùng làm bình
phong cho chính sách “liên Mỹ”
của Trung Quốc nhằm chống Liên Xô và thực hiện chính sách “bá quyền nước lớn”.
Lịch sử không lặp lại, nhưng những qui luật
của lịch sử trong quá khứ thì không thể không khẳng định trong hiện
tại và tương lai. Quan hệ giữa Liên Bang Nga và Trung Quốc trong những
năm gần đây luôn thu hút được sự chú ý của các nhà chiến lược thế
giới, bởi sự nồng nàn và thân mật của nó. Nhưng ngược dòng lịch sử
nhìn lại quá khứ, mối quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung hiện
nay đã từng trải qua hai mươi năm đầy sóng gió và thăng trầm. Vì thế,
muốn phân tích sâu sắc và toàn diện hơn mối quan hệ giữa Liên Bang Nga
và Trung Quốc hiện nay, cũng như để đánh giá xu hướng phát triển của
mối quan hệ này trong tương lai, ta phải bắt đầu nhìn nhận và đánh
giá từ những cơ sở trong quá khứ, đặc biệt là quan hệ giữa hai nước trong
giai đoạn năm 1959 - 1979. Đó là lí do chúng em mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ Trung - Xô giai đoạn 1959 - 1979”
để làm bài nghiên cứu khoa học.
2. Lịch sử vấn đề
Quan hệ Trung – Xô giai đoạn 1959 -1979 đã
được rất nhiều học giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể
kể đến một số công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề:
Lý Kiện (Trung Quốc) với cuốn “Trung - Xô - Mỹ cuộc đối đầu lịch sử”
(NXB Thanh niên, năm 2008), cuốn sách cho người đọc một cái nhìn tổng
thể về mối quan hệ tay ba chiến lược Trung - Xô - Mỹ. Hàng loạt sứ
kiện được dẫn chứng để làm sáng tỏ sự chuyển biến trong mối quan
hệ tay ba, cùng những vấn đề có liên quan. Nhưng nhận định cho mối
quan hệ Trung - Xô giai đoạn này vẫn còn bỏ ngõ chưa được tác giả đi
sâu phân tích một cách xác đáng.
“Một thiên sử sáu đời tổng thống Mỹ - Trung” của Patric Tyler (NXB Công An Nhân Dân, năm 2008),
ấn phẩm trình bài “một bức tranh bất ngờ và đáng lưu tâm hiện ra,
từ điều tra rất lý thú về diễn biến quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ
qua sáu đời tổng thống Mỹ. Với sự va chạm ở mức độ cao giữa hai
cường quốc, đây là một giai đoạn lịch sử với những diễn biến không
thể đoán định”, tất yếu chính sách đối ngoại của Mỹ - Trung dành cho nhau là những nỗi bật
trong tác phẩm, tâm điểm là vấn đề Đài Loan; nhân tố Liên Xô và đỉnh
cao là cuộc xung đột Trung - Xô - Mỹ được đề cập đến trong cuốn sách như
là cơ sở cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của cả Mỹ - Trung
Quốc lẫn Liên Xô và “ván bài Liên Xô”
đã được sử dụng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Mỹ - Trung với
những nhận định cơ bản.
“Lịch
sử quan hệ quốc tế ở Đông Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến
cuối chiến tranh lạnh (1945 - 1991)” của Lê Phụng
Hoàng (NXB ĐHSPTP HCM, năm 2005), cho người đọc thấy Đông Nam Á cũng như
nhiều khu vực trên thế giới không thoát khỏi ảnh hưởng bởi cuộc
chiến tranh lạnh do hai siêu cường Xô - Mỹ tạo nên. Trung Quốc cũng
phải nổ lực để xác lập cho mình một vị thế. Mối quan hệ giữa Trung
Quốc với các nước lớn trong đó có Liên Xô cũng được tác giả đề cập
đến một cách có hệ thống từ khi CHND Trung Hoa ra đời đến kết thúc
chiến tranh lạnh. Các vấn đề như: xung đột biên giới Trung - Xô, sự
điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc cũng được đề cập đến để cho
thấy nó cũng chính là nhân tố góp phần chi phối quan hệ Trung - Xô
trong chiến tranh lạnh.
“Các
vấn đề chính trị quốc tế ở Châu Á - Thái Bình Dương”
của Yahuda (NXB văn học, năm 2006), ấn phẩm này trước tiên sẽ cung cấp
một cái nhìn tổng thể về khu vực nói chung với những chuyển biến
của nó từ năm 1945 đến nay; sự thay đổi trong cán cân quyền lực ở
cấp độ khu vực và toàn cầu; phân tích sự tách biệt các quyền lợi
và chính sách của hai siêu cường Mỹ - Liên Xô hiện diện ở khu vực;
và cuối cùng là các chương viết lần lượt về Trung Quốc và Nhật
Bản, hai cường quốc của khu vực có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Trong
tác phẩm tác cũng đề cập đến vấn đề liên minh Trung Quốc - Liên Xô
sụp đổ, chủ yếu là những vấn đề liên quan đến chính trị quốc tế
và chiến lược. “Cuộc xung đột Trung
Quốc - Liên Xô cuối cùng đạt đến mức có thể tạo ra những thay đổi
căn bản trong cán cân quyền lực trung tâm suốt thời kì chiến tranh
chiến tranh lạnh”.
“Chủ
nghĩa Mao chống phong trào cộng sản thế giới”
của tác giả Phơ - Ren - Xơ - Va - Rơ - Nai (NXB Thông tin lý luận, Hà
Nội - 1982), tác phẩm nghiên cứu sự phát triển các quan điểm của chủ
nghĩa Mao qua các giai đoạn khác nhau của cách mạng thế giới, vạch
trần bản chất lý luận và thực tiển của chủ nghĩa Mao. Bằng những
chất liệu thực và cụ thể tác giả đã vạch trần am mưu của mao Trạch
Đông và bọn tay chân chống phá phong trào cộng sản thế giới qua các
giai đoạn khác nhau. Trong cuốn sách, tác giả đã chứng minh rằng, chủ
nghĩa Mao không chỉ là một tai hại đối với Đảng Cộng Sản Trung Quốc,
đối với nhân dân Trung Quốc, cách mạng Trung Quốc và vận mệnh của
CNXH ở Trung Quốc, mà còn là tai hại đối với phong trào Cộng sản và
công nhân quốc tế, đối với phong trào cách mạng thế giới và đối với
toàn nhân loại. Tác phẩm đề cập đến vần đề mâu thuẩn giữa Trung
Quốc - Liên Xô: bắt đầu từ sự đối lập của phong trào Cộng sản thế
giới chuyển sang thời kì hậu chiến công khai đến đoạn tuyệt và chia
rẽ giữa hai nước XHCN anh em một cách khá rõ ràng. Tuy nhiên những
nhận định và đánh giá cho mối quan hệ này vẫn còn mang tính chủ
quan, đứng trên lập trường và tư tưởng của người viết.
Liên quan đến vấn đề này còn có khá nhiều
tác giả đã có những bài viết đề cập đến quan hệ Trung - Xô giai
đoạn 1959 - 1979. trong đó tiêu biểu nhất là bài viết của thạc sĩ
nguyễn Thanh Thủy (Cao đẳng sư phạm Hải Dương), với bài viết “Hai mươi năm sống gió trong quan hệ Liên
Trung - Xô Quốc (1959 - 1979)”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Châu Âu.
Khắc họa khá rõ nét mâu thuẩn Trung - Xô giai đoạn này qua từng thời
kì phát triển của lịch sử.
Như vậy, việc nghiên cứu mâu thuẫn Trung - Xô
giai đoạn 1959 - 1979 đã có và khá phong phú. Tuy nhiên, có một điều
dễ nhận thấy là, chưa có một công trình cụ thể nào đề cập đến mối
quan hệ đầy thăng trầm và phức tạp trong giai đoạn này, một cách
hoàn chỉnh và sâu sắc trên nhiều phương diện, vấn đề này hiện vẫn còn
bỏ ngõ. Vì vậy, Trên cơ sở kế thừa và phát huy những công trình đi
trước của các học giả, với đề tài
“Quan hệ Trung - Xô giai đoạn 1959 - 1979”, hy vọng phần nào hoàn
chỉnh thêm những nhận định về mối quan hệ này giữa hai nước.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ
nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: đề tài đi sâu vào
nghiên cứu những mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ Trung - Xô (1959 - 1979),
qua đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát, sâu sắc và hiểu đúng hơn
về mối quan hệ trung - Xô trong giai đoạn này với sự chuyển biến trong
chính sách đối ngoại của mỗi nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục tiêu
nghiên cứu đề ra thì đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Khái quát được quan hệ Trung - xô trước
năm 1959.
- Làm rõ quan hệ Trung - Xô giai đoạn 1959 -
1979, những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ Trung - xô giai đoạn này.
4. Đối tượng và phạm vi
nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quan hệ giữa Trung
Quốc - Liên Xô, một mối quan hệ đầy thăng trầm với những “toan tính” của mỗi bên.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong
khoảng thời gian 1959 - 1979. đây là giai đoạn mà tình hình quốc tế
có những biến đổi, đặc biệt là quan hệ giữa các nước lớn trong xu
thế vận động đối đầu giữa hai hệ tư tưởng lớn trong chiến tranh
lạnh, nó đã ảnh hưởng rất lớn đến chính sách đối ngoại của các
nước lớn trong giai đoạn này đặc biệt là mối quan hệ đầy mâu thuẫn
giữa hai cường quốc XHCN lớn là Liên Xô và Trung Quốc trong thời gian
này. Phạm vi nghiên cứu cũng được giới hạn trên lỉnh vực ngoại giao,
chính trị là chủ yếu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên quan điểm
Mác - xít, quan điểm đối ngoại của Đảng, nhà nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam.
Đề tài vận dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau: phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp
lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic, phương pháp so sánh đối chiếu,
phân tích tổng hợp.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở tiếp thu,
kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu trước đó. Dù vậy, chúng
em vẫn cố gắng có những đóng góp nhất định trong đề tài của mình,
dựng lại bức tranh tương đối toàn diện về mối quan hệ Trung - Xô giai
đoạn 1959 - 1979 đặc biệt là cuộc chiến tranh biên giới 1969 với những
nhận định, đánh giá có hệ thống những nhân tố góp phần tác động
đến mối quan hệ đầy thăng trầm và phức tạp này.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết
luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài còn có hai chương:
Chương 1: Khái quát quan hệ Trung Quốc - Liên
Xô trước năm 1959
Chương 2: Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô giai
đoạn 1959 - 1979
PHẦN NỘI
DUNG
Chương
1. KHÁI QUÁT QUAN HỆ TRUNG QUỐC - LIÊN XÔ
TRƯỚC
NĂM 1959
1.1. Khái quát bối cảnh quốc tế từ
sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 đến cuối thập niên 50 thế kỉ XX
Khi
đại chiến thế giới thứ hai sắp kết thúc, nhân loại tiến bộ hi vọng giá trị hòa
bình sẽ được đề cao trên đóng tro tàn do cuộc chiến tranh gây ra. Nhưng sự hi
vọng và niềm tin đó nhanh chóng bị phá vỡ, “tương
lai chợt bừng sáng. Bóng tối xua tan. Rừng rực một không khí cuồng hoan…Người
ta đang hoan hô. Người ta đang nhảy múa. Họ tưởng chiến tranh đã chấm dứt. Mà
chiến tranh lại mới chỉ bắt đầu” [8;3]. Một cuộc chiến tranh mới diễn ra
ngay sau đó - Chiến tranh Lạnh, góp phần tạo nên cục diện quan hệ quốc tế đầy
biến động hơn nửa thế kỷ, trong đó Mỹ đứng đầu khối TBCN và Liên Xô đứng đầu
khối XHCN đóng vai trò chủ đạo.
Chiến
tranh lạnh là một trong những chương lạ nhất trong lịch sử quan hệ quốc tế,
cuộc chiến xoắn tất cả các quốc gia vào cùng một quỹ đạo, nhưng lại bị chi phối
bởi các siêu cường.
Liên
Xô hay Mỹ đã làm cho mối quan hệ quốc tế trở nên căng thẳng từ 1945 đến 1991,
để thế giới luôn sống trong tình trạng chiến tranh thường trực. Đặc trưng của
chiến tranh lạnh được tạo nên bởi sự nghi ngờ lẫn nhau, sự mất lòng tin, hiểu
lầm giữa Mỹ và Liên Xô, cùng các đồng minh của họ. Mỹ cáo buộc Liên Xô tìm
cách tuyên truyền, mở rộng CNCS trên phạm vi toàn cầu. Trong khi đó, Liên Xô
lập luận Mỹ đang tiến hành ý đồ đế quốc và ra sức ngăn chặn nền độc lập, tự do
ở các nước. Mỹ muốn một thế giới của các quốc gia độc lập với nguyên tắc tự do
dân chủ là nền tảng – “hòa bình kiểu Mỹ”. Liên Xô thì muốn giữ những khu vực quan trọng cho
lợi ích quốc gia. Theo lập luận trên, do sự “hiểu lầm” giữa Mỹ và Liên Xô đã tạo nên cục diện đối đầu Đông -
Tây.
Với ưu
thế nổi trội trên tất cả các lĩnh vực, Mỹ có điều kiện triển khai chiến lược
toàn cầu của mình sau chiến tranh thế giới thứ hai. Trong số các nước tư bản
hùng mạnh trước chiến tranh thì Ý, Đức, Nhật Bản đã bị đánh bại; Anh, Pháp cũng
không tránh khỏi sự tàn khốc do chiến tranh gây ra. Năm 1946, Mỹ chiếm đến 62%
sản lượng công nghiệp và 40,1% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của thế giới tư
bản, trở thành nước cung cấp và chủ nợ cho các nước tư bản phụ thuộc. Giữ ưu
thế tuyệt đối về mặt quân sự, độc quyền về vũ khí nguyên tử, có 1,2 triệu quân
đóng ở 58 nước, trên 400 căn cứ không quân và hải quân khắp thế giới, nhiều tổ
chức quốc tế, quân sự có sự tham gia và chịu sự chi phối rõ nét của Mỹ [6;46].
Rõ ràng, sau chiến tranh thế giới thứ hai là thời đại của Mỹ, nước này đã
không bỏ lỡ cơ hội ra sức gia tăng vị thế, vai trò trong quan hệ quốc tế.
Nếu
xem xét tổng thể khối TBCN, thì những năm đầu sau thế chiến thứ hai, khối này
giảm sút về địa vị quốc tế trên nhiều mặt, khi đó với vai trò là lực lượng chủ
chốt trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít, vị thế và hình ảnh của Liên Xô,
CNXH được nâng cao hơn bao giờ hết. CNXH trở thành hệ thống thế giới, làm chổ
dựa cho phong trào giải phóng dân tộc xuất hiện ngay trong lòng chiến tranh thế
giới thứ hai và sau chiến tranh đã nhanh chóng phát triển thành cao trào. Điều
này đã thách thức nghiêm trọng ưu thế chủ nghĩa đế quốc, sự ảnh hưởng của Liên
Xô và CNXH trên thế giới ngày càng tăng, do đó nó có ảnh hưởng đến chính sách
đối ngoại của Washington. Trong giai đoạn khoảng thời gian hai thập niên sau
thế chiến thứ hai Mỹ triển khai đường lối đối ngoại với một số điểm nổi bật: Củng cố liên minh quân sự với các
nước đồng minh phương Tây cũ; Mở rộng các liên minh mới để hạn chế sự bành
chướng của khối CNXH; Phát triển viện trợ, tái thiết sau chiến tranh và giúp đỡ
cần thiết các quốc gia sụp đổ từ cuộc chiến, các quốc gia mới giành độc lập
không rơi vào ảnh hưởng của khối XHCN [6;604]. Theo đó, với nhiều biện pháp
được triển khai một cách cụ thể nhằm ngăn ngừa “sự mở rộng của CNCS”, bảo vệ “thế
giới tự do”
Ngày
12-3-1947, tổng thống Mỹ - Truman trong bài diễn văn trước Quốc hội chính thức
phát động cuộc chiến tranh Lạnh chống Liên Xô, CNXH. Mỹ đã chọn Châu Âu là
chiến trường chính để chống lại sự lan rộng của CNCS, thông qua gói viện trợ
400 triệu USD về quân sự, kinh tế cho chính phủ Thổ Nhĩ Kì và Hy Lạp, sau khi
Anh thông báo với các quan chức ngoại giao Mỹ là nước này không đủ sức cung
cấp tài chính cho các nước nói trên, yêu cầu Mỹ phải can thiệp vì nếu “không kiểm soát được hai quốc gia này, CNCS
có khả năng sẽ lan rộng về phía Nam Iran và tận phía Đông Ấn Độ”. Như vậy,
chiến lược ngăn chặn của Mỹ không chỉ giới hạn, hạn chế sử mở rộng của Liên Xô
mà còn mở rộng đến việc ngăn chặn sự bành trướng của CNCS ở bất cứ nơi nào trên
thế giới. Mỹ tin tưởng sự thành công của kế hoạch “ngăn chặn” phải dựa vào
việc chính phủ và nhân dân Mỹ cùng toàn thể nhân dân các quốc gia “tự do” nhận
thức được: chiến tranh lạnh thực tế là một cuộc chiến tranh thực sự có quan hệ
đến sự sống còn của thế giới tự do.
Những động thái từ Matxcơva luôn nhận được sự quan tâm đặc
biệt từ Washington, điển hình như sự kiện tháng 9-1949 điện Kremlin thử thành
công bom nguyên tử. Sự kiện này tác động một cách mạnh mẽ vào lòng tự hào của
người Mỹ về loại vũ khí hủy diệt. Bởi vì, độc quyền về bom nguyên tử của Hoa
Kì là thứ để dành và mang ra sử dụng khi có mâu thuẫn về quyền lực hậu chiến
với Liên Xô. Ngay sau đó, kế hoạch mang tên bản ghi nhớ 68 của Hội đồng an ninh
quốc gia (NSC - 68) được Quốc hội Mỹ thông qua, chính thức khởi động cuộc chạy
đua vũ trang với Liên Xô kéo dài suốt mấy thập kỷ. Cuộc chạy đua này trở thành
một bộ phận quan trọng của chiến tranh Lạnh, đồng thời góp phần lớn chi phối
các vấn đề trong quan hệ quốc tế cũng như quan hệ song phương Mỹ - Xô từ sau
thế chiến thứ hai.
Có thể thấy, bằng những chính sách, biện pháp ngoại giao Mỹ
đã góp phần thổi bùng ngọn lửa chiến tranh Lạnh phục vụ cho chiến lược toàn cầu
của nước này. Hầu hết các đời tổng thống đều đưa ra những học thuyết để làm nền
tảng cho chính sách ngoại giao, qua đó thể hiện một phần tham vọng lãnh đạo thế
giới. Chủ nghĩa Aixenhao và chiến lược trả đũa ồ ạt thực hiện chính sách “bên miệng hố chiến tranh”, đem vũ khí
nguyên tử ra hù dọa nhằm buộc đối phương lùi bước; chiến lược phản ứng linh
hoạt và chính sách đối ngoại “vì hòa
bình” của G.Kennedy (1961 - 1968) với tuyên bố “chúng ta hãy làm cho mọi người biết rằng chúng ta sẽ trả bất cứ giá
nào, gánh vác bất cứ gánh nặng nào, đương đầu với bất cứ sự gian khổ nào để đảm
bảo sự sống còn và thắng lợi của thế giới tự do”. Trước năm 1970, trong các
học thuyết, quan trọng nhất là học thuyết Truman với chiến lược ngăn chặn CNCS
(1946 -1952) đặt nền tảng cho các học thuyết toàn cầu về sau, với học thuyết
này đánh dấu bước ngoặt can dự sâu rộng của Mỹ trong quan hệ quốc tế, do ý
thức về một nước Mỹ siêu việt, là trung tâm của mọi quốc gia được xây dựng
trên nền tảng tự do, dân chủ, Mỹ phải có trách nhiệm ủng hộ, đẩy mạnh sự “tự
do” ở khắp nơi. Vì vậy, phát động một cuộc chiến tranh chống lại sự “độc đoán, thiếu tính tự do dân chủ” là
đều tất yếu, để thành công thì trước hết phải ngăn chặn nơi đã sinh ra nó, ngăn
chặn để trách sự lây lan toàn cầu vì cộng sản vừa là một khối thống nhất, vừa
có tính quốc tế với trung tâm đầu não là Matxcơva. Trong chính sách ngăn chặn,
Truman đã vạch ra mục tiêu cụ thể, điều cần thiết nhất vẫn là ngăn chặn CNCS.
Quan
điểm Liên Xô cũng là nhân tố góp phần đưa quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế
giới hai trong tình trạng nóng, lạnh. Lý giải cho nhận định này, dựa trên cơ sở
sự hiện diện quân sự của Liên Xô khắp Đông Âu, hướng các quốc gia Đông Âu theo
hệ tư tưởng cộng sản và điều quan trọng Liên Xô ra sức truyền bá hệ tư tưởng
này ở khắp nơi trên thế giới Liên Xô từ chối bầu cử tự do tại Ba Lan và Tiệp
Khắc, sự can thiệp của họ ở Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kì và Iran, hỗ trợ cho lực lượng
cộng sản ở Trung Quốc, và sự phản đối của Mỹ với các kế hoạch hậu chiến cho
việc kiểm soát và thúc đẩy phát triển kinh tế - như kế hoạch Buruch, kế hoạch
Marshall.
Chiến
tranh lạnh là kết quả của cuộc tranh giành và mở rộng phạm vi thế lực giữa Liên
Xô và Mỹ, phía Mỹ và Liên Xô đều có những lập luận lên án, quy đổi trách
nhiệm cho nhau vì đã gây nên tình trạng căng thẳng trong quan hệ quốc tế nói
chung và quan hệ giữa hai nước nói riêng từ 1945 - 1991. Mỹ và Liên Xô đều là
những siêu cường duy nhất sau chiến tranh thế giới thứ hai, những chính sách
đối ngoại của hai nước đều có ảnh hưởng nhất định đến quan hệ quốc tế giai đoạn
này.
Như
vậy, sự liên minh Mỹ - Xô trong chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít chỉ là
liên minh tạm thời do tình thế bắt buộc, theo các nói của một sử gia, đó là “cuộc hôn nhân không có tuần trăng mật”.
Cuộc hôn nhân đầy toan tính này sớm tan vỡ, hai bên đã công khai lên án chính
sách lẫn nhau. Hàng loạt các công cụ, biện pháp, thiết chế, chiến lược đã được
huy động để phục vụ cho cuộc chiến, làm toàn bộ đời sống quốc tế bị bao phủ bởi
không khí băng giá, đối đầu.
Cuộc
chiến diễn ra khắp các mặt trận từ kinh tế, chính trị đến quân sự, khắp các
châu lục từ Âu sang Á, từ Mỹ sang Phi. Nó đã gây ra tình trạng nóng, lạnh
trong quan hệ giữa hai nước và lôi cuốn cả thế giới luôn tồn tại trạng thái chiến
tranh thường trực. Và đây là một đặc điểm quan trọng của chiến tranh lạnh.
Từ một
nước XHCN đều tiên trên thế giới, sau chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH có
điều kiện để phát triển, Liên Xô là nước đi tiên phong. Các nước Đông Âu sau
khi giành độc lập đều đi theo con đường Liên Xô. Khu vực Châu Á, Liên Xô cũng
gia tăng ảnh hưởng như Mỹ: công nhận và quan hệ hữu nghị với CHND Trung Hoa,
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa… Đến đầu thập niên 60, Matxcơva cũng tập hợp được một
liên minh vững chắc để đối đầu với khối TBCN. Chạy đua vũ trang, kinh tế giữa
hai cường quốc không nằm ngoài mục tiêu loại trừ đối phương, năm 1949 Hội đồng
tương trợ kinh tế (SEV); ngày 14-5-1955, Liên Xô và đồng minh thành lập khối
quân sự Vacsava. Như vậy, cuộc đối đầu Mỹ - Xô đã được triển khai khắp các mặt
trận.
Tóm
lại, quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai nổi bật là mối quan hệ Mỹ
- Xô, tạo thành hai cực với hai hệ tư tưởng đối nhau, góp phần tác động đến
đường lối đối ngoại của nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Cuộc chiến
tranh lạnh được khởi xướng bởi Mỹ và Liên Xô. Hai bên tham gia vào chạy đua vũ
trang từ vũ khí thông thường đến vũ khí hạt nhân, tạo lập một hệ thống liên
minh, liên quan đến các chiến dịch quân sự nhưng không trực tiếp đối nhau, cung
cấp viện trợ đáng kể cho đồng minh, tận dụng các hoạt động gián điệp, bí mật,
tham gia vào các cuộc chiến tranh tuyên truyền để giúp duy trì các mục tiêu hơn
nữa thế kỷ. Nhìn lại 2 thập kỷ đầu của cuộc chiến thì tình trạng căng thẳng
giữa hai cực là đặc điểm nổi bật nhất, quan hệ giữa Hoa Kì với các nước đồng
minh Liên Xô cũng trong tình trạng tương tự, với Trung Quốc là một điển hình.
1.2. Quan hệ Trung - Xô (1949 - 1959)
1.2.1. Những mối quan hệ tốt đẹp
giai đoạn 1949 - 1956
Mối quan hệ tốt đẹp
này diễn ra đúng vào thời điểm khi cuộc chiến tranh lạnh đang phát triển,
quan hệ Xô - Mỹ đang đi đến chỗ đoạn tuyệt, thắng lợi hoàn toàn của
Đảng cộng sản Trung Quốc trong cuộc nội chiến với Quốc Dân Đảng bị
các giới chính trị, tài phiệt và báo trí Mỹ tiếp đoán với mối ác
cảm nặng nề và đã gây ra một chấn thương lớn trong dư luận Mỹ. Hoàn
cảnh lịch sử này không cho giới lãnh đạo Trung Quốc có nhiều lựa
chọn trong chính sách đối ngoại. ngày 30-6-1949 Đảng cộng sản Trung Quốc
đại diện là Mao Trạch Đông tuyên bố chính sách “ngả hẳn một bên” (nhất biên đảo) trong đường lối ngoại giao của
nước này, theo đó sẽ trở thành đồng minh với Liên Xô, các nước dân chủ nhân
dân, giai cấp vô sản nhằm hình thành một mặt trận quốc tế thống nhất chống lại
Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ. Độc lập, an ninh quốc gia được xem là nhân
tố hàng đầu để Bắc Kinh đưa ra tuyên bố trên. Cuối những năm 40, giới lãnh đạo
Đảng cộng sản Trung Quốc đã nhận thấy trật tự thế giới sau thế chiến hai sẽ
chia thành hai phe, một dưới sự lãnh đạo của Liên Xô, phần còn lại do Mỹ và
Trung Quốc đã xem cuộc cách mạng mà họ đang tiến hành theo hệ tư tưởng vô sản
là một phần không thể tách rời của phong trào cách mạng vô sản do Liên Xô đi
đầu. Đây là một sự lựa chọn bắt buộc, không thể tồn tại với thái độ trung lập
trong bối cảnh đương thời, điều này cho thấy “không thể do ý nguyện của bản thân Trung Quốc quyết định được, mà mấu
chốt là thái độ của Mỹ và Liên Xô” [8;151]. Với sự lựa chọn ngã hẳn về một
bên vì an ninh quốc gia, trước mắt là sự đe dọa từ Mỹ, trong cuộc nội chiến
Đảng cộng sản Trung Quốc đã tỏ ra mong muốn Mỹ sẽ đóng vai trò là trung gian
hòa giải với Quốc dân Đảng nhằm chống lại cuộc nội chiến với nhân dân. Nhưng
niềm tin đó đã nhanh chóng bị tan vỡ vì sự can thiệp của Washington đã làm cho
việc đi đến một nước Trung Quốc trở nên khó khăn hơn, lâu dài hơn. Trong cuộc
họp của bộ chính trị tháng 1-1949 với báo cáo “tình hình hiện nay và nhiệm vụ
của Đảng năm 1949” việc Mỹ tham gia vào nội chiến đã trở thành chủ đề quan tâm
của hội nghị, Mao đã phát biểu “khi chúng
ta lập kế hoạch chiến tranh, chúng ta luôn đưa ra dự kiến Mỹ có thể gửi quân
chiếm một số thành phố ven biển và đụng đầu trực tiếp với chúng ta. Chúng ta
nên chuẩn bị cho đều này từ ngay bây giờ nếu đều đó xảy ra”. Và Đảng cộng
sản Trung Quốc có niềm tin rằng: nếu cách mạng nước này thành công, các nước đế
quốc sẽ can thiệp quân sự cũng giống như những gì mà họ đã làm đối với cách
mạng Tháng Mười Nga 1917. Do vậy, bằng cách liên minh với Liên Xô dưới sự
lãnh đạo của Mao và Đảng cộng sản Trung Quốc hy vọng nước này sẽ có một vị trí
tương xứng đủ thế và lực để đối phó với một nước Mỹ thù địch.
Và khi cách mạng Trung
Quốc thành công, những phản ứng của chính quyền Washington như cấm vận kinh tế,
ban bố quyết định bảo vệ Đài Loan, sau đó là cuộc chiến tranh Triều Tiên diễn
ra, Bắc Kinh ngày càng tin Mỹ đã đặt họ vào vị trí tiền tiêu trong cuộc chiến
tranh lạnh ở Châu Á, là mục tiêu chính trong chiến lược ngăn chặn và cô lập của
Washington. Vì vậy, chính sách “nhất biên
đảo” ngày càng được củng cố thêm niềm tin cho Đảng cộng sản và nhân dân
Trung Quốc “trên trường quốc tế, chúng ta
(Trung Quốc) thuộc trận tuyến chống đế quốc do Liên Xô đứng đầu, sự viện trợ
hữu nghị chân chính có thể tìm thấy ở đây, không thể tồn tại được ở trận tuyến
chống đế quốc” [8;157]. Sau khi thiết lập ngoại giao chính thức, để tăng
thêm tinh thần đoàn kết XHCN trãi qua các cuộc đàm phán đến ngày 14-2-1950 “Hiệp ước hữu nghị, liên minh và tương trợ
lẫn nhau Trung - Xô” đã được kí kết giữa hai nước, theo đó những hiệp ước
kí kết giữa Liên Xô và chính phủ Quốc Dân Đảng trước đó bị hủy bỏ. Nội dung của
hiệp ước được quy định rõ ràng, “các bên
cam kết thực hiện mọi biện pháp cần thiết có thể nhằm ngăn ngừa sư lập
lại hành động xâm lược và phá hoại hòa bình từ phía Nhật hay từ
mọi quốc gia nào khác liên minh, trực tiếp hay gián tiếp, với Nhật trong
các hoạt động xâm lược; trong trường hợp một trong hai bên kí kết là
mục tiêu tiến công của Nhật hay của một quốc gia liên minh với Nhật,
và do vậy ở trong tình trạng chiến tranh, nước kí kết còn lại sẽ
ngay lập tức mang đến, bằng mọi phương tiện có thể được, sự giúp đỡ
về quân sự và những sự giúp đỡ khác…”. Điều 3 ghi rõ: “các bên kí kết sẽ không kí kết bất
kì liên minh nào chống lại một trong hai nước kí kết và sẽ không tham
gia bất kì mối liên hiệp, tiến hành các hoạt động hay biện pháp
chống lại một trong hai nước kí kết” [3;112]. Điều quan trọng Trung -
Xô sẽ hợp tác trên một tinh thần hữu nghị, phù hợp với các nguyên tắc bình đẳng
cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không được
phép can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; hợp tác không chỉ về mặt chính
trị mà còn thúc đẩy sự giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế. Hiệp ước có ý
nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn an ninh của cả hai bên, duy trì hòa bình
khu vực Viễn Đông như một phần của thế giới, tăng cường tình hữu nghị giữa nhân
dân hai nước và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng CNXH. Trên tinh thần chung quan hệ
Trung - Xô những năm 50 đã phát huy cao độ tinh thần hiệp ước, khi Mao chỉ ra
rằng “muốn cách mạng thì phải có Đảng
cách mạng…..Đảng cộng sản Trung Quốc là đảng được xây dựng và phát triển dựa
theo khuôn mẫu của Đảng cộng sản Liên Xô” [8; 150] và “đối với sự phát triển của CNXH ở Trung Quốc, khi bắt đầu xây dựng một
nhà nước mới, chúng ta cần sao chép Liên Xô như một con đường duy nhất” và
“trong khoảng thời gian 3 năm đầu tiên
khôi phục đất nước sau giải phóng chúng ta khá bối rối về sự phát triển, tuy kế
hoạch 5 năm lần 1 chúng ta cũng chưa rõ ràng về nó. Vì vậy về cơ bản chúng ta
cần phải làm theo những gì Liên Xô đã làm”.
Không đầy một năm sau,
hiệp ước đã có cơ hội phát huy tác dụng, khi Trung Quốc tham gia cuộc
chiến tranh Triều Tiên. Dù chưa kịp hồi sức sau cuộc nội chiến, Trung
Quốc vẫn sẳn lòng chịu đựng những hi sinh to lớn cho cuộc chiến này.
Và cũng nhờ đó, Liên Xô, cũng như phương Tây, đã cảm nhận được sức
mạnh và tầm quan trọng của Trung Quốc trong phe XHCN. Chỉ hai tuần sau
khi Stalin qua đời (5-3-1953), một hiệp ước kinh tế đã được kí, theo
đó, Liên Xô giúp Trung Quốc xây mới và mở rộng, cải tạo 141 công
trình công nghiệp,gồm 50 công trình đã được đề cập trong hiệp định 14-2-1950
và 91 xí nghiệp công nghiệp lớn mới bổ sung. Quy mô của dự án này “cho phép đưa nền sản xuất của Trung
Quốc vào cuối năm 1959 đạt mức của Liên Xô năm 1932” [3;114].
Những người kế vị
Stalin đồng thời đối xử với Trung Quốc như một đồng minh đích thực.
Bản thông cáo chung được công bố vào cuối chuyến viếng thăm của phái
đoàn Liên Xô nhấn mạnh đến sự bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, tôn trọng lẫn nhau và tôn
trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và chú ý làm rõ quyết định tham khảo
ý kiến của nhau về mọi vấn đề liên quan đến quyền lợi chung của cả
hai nước. Do lúc này, vẫn còn thừa nhận vai trò lãnh đạo của Liên Xô
trong phe XHCN, Mao Trạch Đông hẳn không đòi hỏi gì hơn. Quan hệ Trung -
Xô chưa lúc nào tỏ ra vững chắc bằng những năm 1954 - 1957.
Tính cho đến năm 1959,
Liên Xô giúp Trung Quốc xây dựng 400 công trình công nghiệp, trong đó từ
250 đến 300 thuộc loại lớn, 10.800 chuyên gia kĩ thuật và cố vấn; Liên
Xô cung cấp cho Trung Quốc 14.000 tập tài liệu kĩ thuật trị giá hàng
tỉ dollar và bán cho Trung Quốc 4,7 tỉ rúp trang bị… “Đây là sự chuyển nhượng kĩ thuật
toàn diện nhất trong lịch sử công nghiệp hiện đại” [3;116]. Đáng
kẻ hơn cả ngày 15-10-1957, Liên Xô và Trung Quốc đã kí một hiệp nghị
bí mật, theo đó Liên Xô hứa sẽ cung cấp cho Trung Quốc một mẫu bom
nguyên tử và những số liệu kĩ thuật để chế tạo nó. Hiệp nghị cho
thấy Liên Xô đã coi Trung Quốc như là đồng minh đáng tin cậy thực sự.
Về phần mình, giới lãnh đạo Trung Quốc luôn sẵn sàng công nhận vị
thế hàng đầu của Liên Xô trong khối các nước XHCN.
1.2.2.
Những bất đồng kín đáo (1956 - 1959)
Những bất đồng kín
đáo giữa Liên Xô và Trung Quốc được thể hiện qua một loạt biến cố
diễn ra trong năm 1956, mà khởi đầu là ngay trong Đại hội Đảng Cộng sản
Liên Xô lần thứ XX (tháng 2-1956). Đại hội được triệu tập từ sau cái chết
của Stalin (5-3-1953), với báo cáo gửi đến Bộ chính trị của Khrushev đã đưa ra
một kế hoạch xây dựng kinh tế hết sức lớn lao nhằm đuổi kịp và
vượt Mỹ trong thời gian ngắn, khoảng mười lăm năm. Để có thể dồn sức
thực hiện kế hoạch to tát đó, Khrushev cho rằng cần có một nền hòa
bình vững chắc, mà trong điều kiện so sánh lực lượng lúc đó, không
gì khác hơn là hòa dịu Xô - Mỹ và cần tiến hành một cải cách trong
nước [3;117]. Với luận điểm đó, Khrusev đã dấy lên một cuộc tranh luận
không chỉ trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô mà còn trong toàn khối XHCN.
Khrusev đã đánh giá lại vai trò quyền lực của nhà nước Liên bang cùng một số
vấn đề có liên quan, trong đó nội dung quan trọng nhất là đánh giá lại vai
trò của Stalin “làm thế nào Stalin đã tàn
phá nền dân chủ XHCN và đứng trên hệ thống XHCN”. Điều này đã phá vỡ hình
ảnh của Stalin trong mắt của những người, tổ chức, những nước theo mô hình XHCN
sùng bái ông. Nó mở ra phong trào “chống
sùng bái cá nhân” trong tổ chức Đảng và “chủ
nghĩa xét lại”. Trong Đại hội, Khrusev còn nêu rõ đường lối đối ngoại là “chung sống hòa bình” giữa các nước có
chế độ xã hội khác nhau. Phía Trung Quốc đã có những phản ứng mang tính nhận
thức đối với Đại hội XX của Đảng cộng sản Liên Xô, trong việc tán thành tệ sùng
bái cá nhân “Việc Đảng cộng sản Liên Xô
dũng cảm phê bình những khuyết điểm của mình chứng minh tính tự nguyên tắc cao
của Đảng và sức sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác -Lênin…..cuộc đấu tranh chống
sùng bái cá nhân tại đại hội….là một cuộc đấu tranh vĩ đại, anh dũng…đã quét
sạch những chướng ngại về tư tưởng trên con đường đi lên tiến bộ. Đảng cộng sản
Trung Quốc chào mừng những thắng lợi to lớn đã giành được trong cuộc đấu tranh
có ý nghĩa lịch sử mà Đảng cộng sản Liên Xô tiến hành chống tệ sùng bái cá nhân”
[16;41]. Đảng cộng sản Trung Quốc tán thành một số khía cạnh trong bài phát
biểu của Khrushev nhưng trong tư tưởng ngoại giao chung sống hòa bình trước hết
với Mỹ, Bắc Kinh không đồng nhất với quan điểm này khi cho rằng “đế quốc Mỹ là nguồn gốc của chiến tranh và
là kẻ thù tàn ác nhất của nhân dân thế giới” [13;33,34], sự thỏa hiệp Xô - Mỹ
sẽ đi ngược lại với tư tưởng XHCN “Liên
Xô chỉ đơn phương đưa ra quan điểm và áp đặt các nước cùng tư tưởng theo hướng
chủ ý của mình”, việc tham khảo ý kiến của nhau phải là thật chứ không mang
tính hình thức, rằng sự đoàn kết giữa các Đảng cộng sản sẽ bị tổn hại nếu “Đảng này áp đặt quan điểm của mình lên Đảng
khác” [4;184]. Việc Khrushev đưa ra kế hoạch xây dựng kinh tế để vượt Mỹ
trong khoảng 15 năm và nếu muốn thành công thì cần điều kiện hòa bình vững
chắc, trước hết giảm nhiệt chiến tranh lạnh với Mỹ. Đây là căn cứ để Trung
Quốc lên tiếng cho rằng Liên Xô chỉ nghĩ đến lợi ích quốc gia. Thực tế trong
giai đoạn này quan hệ Mỹ - Trung đang căng thẳng về vấn đề Đài Loan, nó liên
quan đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia này. Các cuộc đàm phán về cắt giảm vũ khí chiến lược giữa
hai cực Xô - Mỹ cũng gây ra sự phản ứng từ Bắc Kinh, đặc biệt việc phát triển
vũ khí hạt nhân mà trước đó Liên Xô đồng ý hỗ trợ công nghệ phát triển hạt nhân
cho nước này. Tại hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế diễn ra ở Matxcơva
tháng 1-1957 Mao Trạch Đông đã tuyên bố “trong
cuộc chiến tranh hạt nhân thế giới nếu như một nữa loài người bị tiêu diệt, vẫn
còn lại một nữa thế nhưng chủ nghĩa đế quốc sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt và trên
thế giới chỉ còn CNXH, và sau nữa thế kỷ hoặc một thế kỷ dân số sẽ phát triển
thậm chí còn lớn hơn một nữa” [16;51]. Đây là luận điểm “gió Đông thổi bạt gió Tây” mà Mao sử
dụng để thay thế cho khẩu hiệu có tính giai cấp đấu tranh giữa CNXH và chủ
nghĩa đế quốc, qua đó thể hiện quan điểm của quốc gia này trên diễn đàn các
nước XHCN. Theo đó, tư tưởng xây dựng XHCN theo cách riêng của Trung Quốc hình
thành, ngay từ giữa những năm 50 Trung Quốc đã bắt tay tìm kiếm đường lối xây
dựng CNXH mang tính linh hoạt trong đường lối đối nội, đối ngoại, giảm bớt sự “chỉ đạo” từ Liên Xô. Năm nguyên tắc
chung sống hòa bình mà Bắc Kinh đề xuất đã thể hiện rõ quan điểm này, trên cở
sở đó Bắc Kinh đã vận dụng tư tưởng “gậy
ông đập lưng ông” đối với Matxcơva trong vấn đề đối ngoại. Liên Xô thực
hiện chính sách hòa hoãn với phương Tây, chung sống hòa bình thì không có lí do
gì giữa các nước XHCN không chung sống hòa bình trên cở sở những nguyên tắc đó
vì các nước XHCN đều là những quốc gia có chủ quyền, độc lập đồng thời lại đoàn
kết với nhau trong tinh thần quốc tế vô sản và lý tưởng XHCN [8;336]. Trong
thời gian tiến hành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, bên cạnh những kết quả đạt
được, Trung Quốc cũng gặp nhiều sai lầm trong phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” và “Đường lối ba ngọn cờ hồng” (1958) trong kế hoạch năm năm lần thứ hai.
Những diễn biến tại Bắc Kinh đã được báo cáo về Matxcơva trên cơ sở đó “Khrushev và một số nhà lãnh đạo Xô Viết đã
kín đáo phê phán công xã nhân dân và Đại nhảy vọt” [3;120]. Đây chẳng khác
nào sự vi phạm vào một trong năm nguyên tắc hòa bình mà Trung Quốc đề xuất với
khối XHCN.
Vào khoảng thời gian 1958
căng thẳng trong quan hệ Trung - Xô trở nên rõ ràng trong những quan điểm khác
nhau về một số vấn đề liên quan đến chính sách đối ngoại của các bên. Đầu tiên
là việc Trung Quốc khởi động cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai, từ
ngày 23-8-1958 bằng các đợt pháo kích vào đảo Kim Môn, Mã Tổ với tuyên bố: “đối với nhân dân Trung Quốc bất cứ hiệp
định nào kí kết giữa Mỹ và chính quyền Tưởng đều không có cơ sở pháp lí”,
lên án Washington là kẻ xâm lược nhưng điều quan trọng Bắc Kinh muốn Matxcơva
nhận thức lại quan điểm của nước này và chính sách chung sống hòa bình của Liên
Xô với phương Tây. Cuộc pháo kích này nhằm ý đồ, buộc đội quân phòng vệ của
Đài Loan phải đầu hàng mà không có sự phản ứng từ Mỹ, để chứng tỏ cho Khrushev
thấy quan tâm của Bắc Kinh, sự bất lực của Washington và thái độ không thích
đáng của Matxcơva. Ngày 7-9-1958 đại diện Matxcơva gửi đến tổng thống Aixenhao
lời cảnh báo để thực hiện đúng cam kết như trong hiệp ước 14-2-1950 với Bắc
Kinh rằng nếu Mỹ thực hiện một cuộc tấn công chống lại Trung Quốc đó sẽ là
cuộc tấn công chống lại Liên Xô, và sẽ nhắc nhở nếu sử dụng bom hạt nhân vào
Trung Quốc, Liên Xô sẽ đáp trả để bào vệ đồng minh. Không có cuộc đối đầu quân
sự trực tiếp xảy ra, do vậy tuyên bố bảo vệ Trung Quốc của Liên Xô trước đế
quốc Mỹ đã bị các nhà lãnh đạo Bắc Kinh lên án đó chỉ là những thủ đoạn tuyên
truyền. Đường lối ngoại giao “nhất biên
đảo” của Bắc Kinh khoảng thập niên 60 đang chuyển dần sang “lưỡng biên phản” vì cho rằng Xô, Mỹ
đang liên kết với nhau để chống lại mình, mặc dù quyền lợi của hai nước cơ bản
là đối nghịch nhau.
1.3. Nhận xét về quan hệ
Trung - Xô trước năm 1959
Như vậy, mối quan hệ nồng
ấm Trung - Xô chỉ khoảng 3 năm đầu khi hiệp ước hữu nghị được kí kết, từ sau
cái chết của Stalin xuất phát từ chiến lược ngoại giao nước lớn nên tình hữu
nghị, hợp tác giữa hai nước XHCN này bắt đầu có sự chia rẽ ngầm trong Đảng. Khi
nhận định rằng lí do quan trọng nhất là các nhà lãnh đạo Liên Xô muốn sử dụng
Trung Quốc để duy trì vị trí dẫn đầu trong hệ thống các nước XHCN; phong trào
cộng sản quốc tế và khi địa vị chính trị vững vàng nước này sẽ “cọ xát” mạnh với tư cách là nước lớn,
nếu một quốc gia XHCN nào đó “chệch
hướng” theo “chỉ đạo” của Matxcơva.
Phía Bắc Kinh muốn có được viện trợ nhiều nhất từ Liên Xô trong quá trình triển
khai các kế hoạch năm năm, do vậy hợp tác với Liên Xô lí do chính là kinh tế
chứ không phải là chính trị chủ đạo. Điều này đã được minh chứng bằng một loạt các
viện trợ từ Liên Xô sang Trung Quốc, tính đến năm 1959 dựa trên kết quả hợp tác
hai nước.
Những năm tháng nóng lạnh
trong quan hệ giữa hai nước trong khối XHCN, đã dẫn đến cuộc, xung đột
biên giới Trung - Xô xảy ra. dù trước đó cả Trung - Xô đều tuyên bố tình đoàn
kết anh em đời đời không thể phá vỡ. Ngay trong tuyên bố thành lập nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông cũng cho rằng cần thiết phải phát triển
mối quan hệ đặt biệt với Matxcơva. Trong khoảng thời gian 1949 - 1950 một liên
minh chiến lược với Liên Xô đã đạt được sau những nỗ lực của lãnh đạo Trung
Quốc đánh dấu bằng hiệp ước 14-2-1950. Nhưng sự biến chuyển của lịch sử không
như hai nước dự kiến.
Chương 2. QUAN
HỆ TRUNG QUỐC - LIÊN XÔ
GIAI ĐOẠN
1959 – 1979
2.1. Bối cảnh quốc tế giai đoạn
1959 - 1979
Trong
giai đoạn này, có nhiều thay đổi lớn xảy ra trong lịch sử quan hệ ngoại giao
thời hậu chiến thế giới. Cuộc đối đầu Đông - Tây khung cơ bản của chính trị
quốc tế đã được duy trì hơn ¼ thế kỉ đã có những biến đổi ít nhất là vẻ bề
ngoài, các nước hướng về việc xây dựng một trật tự quốc tế mới đã và đang được
hình thành. Thay đổi diễn tiến không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà còn kinh
tế. Trong chính trị quốc tế rõ lên là sự phân cực, Mỹ - Xô hai cực chi phối
cục diện quan hệ quốc tế đang dần bị xói mòn bởi các “lực lượng” mới nổi lên,
nó được bắt đầu từ thập niên 70.
Sau khi kết thúc Cách mạng
văn hóa, Trung Quốc ra sức khắc phục hậu quả do cuộc cách mạng này gây ra đồng
thời tăng cường hoạt động ngoại giao, trước hết cải thiện quan hệ với phương
Tây, luôn vận động để được kết nạp vào Hội đồng Bảo An. Trong quan hệ với Mỹ
(từ năm 1969) sự đối đầu đã giảm giữa hai nước bởi những động thái tích cực của
hai phía, mặc dù Washington và Bắc Kinh chưa diễn ra các cấp cao nào để thỏa
thuận, thiết lập quan hệ chính thức, điều mà hai nước nổ lực đến tận năm 1979
mới chính thức đạt được. Dường như cả Mỹ và Trung Quốc chưa bao giờ thỏa mãn
được những điều kiện mà các bên đưa ra trong đàm phán quan hệ, để đạt được mục
tiêu chiến lược thì các nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ này chỉ tạm thời được
gác lại và khi có cơ hội thì nó lại những nguyên nhân gây ra tình trạng nóng,
lạnh giữa Washington và Bắc Kinh.
Mối quan hệ Trung - Xô đóng
băng sau các cuộc đụng độ vũ trang dọc biên giới hai nước, và phải trải qua một
quá trình đàm phán vì những khác biệt trong quan điểm, đến thập niên 80 về cơ
bản tình hình biên giới cũng như những bất đồng trong quan hệ hai nước đã được
giải quyết, điều này không chỉ phù hợp với xu thế phát triển trong quan hệ quốc
tế là hòa bình, ổn định mà còn vì lợi ích chiến lược của cả hai.
Sự gia tăng vị thế quốc tế của Nhật Bản trong
thời gian này càng rõ nét, nước này trở thành một trong ba trung tâm kinh tế -
tài chính của thế giới tư bản khi đang trong giai đoạn phát triển thần kì, mặt
dù sau đó chịu sự tác động bởi khủng hoảng năng lượng năm 1973 nền kinh tế nước
này có những tác động nhất định nhưng điều này không ảnh hưởng đến việc Nhật
Bản gia tăng vai trò, vị thế trên chính trường quốc tế. Kinh tế Tây Âu bắt đầu
từ thập niên 70 đang phát triển sánh ngang với Mỹ và Liên Xô. Bên cạnh đó sự
mở rộng của cộng đồng Châu Âu tạo nên sự ổn định, phát triển cao hơn cho khu
vực này trên nhiều mặt, với nhiều nổ lực đã giảm bớt sự căng thẳng Đông - Tây,
thông qua các giải pháp về vấn đề Berlin (Đức), các hội nghị an ninh Châu Âu
hoạch định các kế hoạch giảm sự gia tăng quân sự không cần thiết. Đồng minh của
Mỹ ngày càng có tiếng nói độc lập hơn trong nhiều vấn đề quốc tế không phải
chịu ảnh hưởng hay sức ép nào từ bên ngoài.
Từ thập niên 1970 Châu Á
cũng bị tác động theo những chuyển biến trong quan hệ quốc tế. Sau chiến tranh
Triều Tiên, hai miền Nam - Bắc phát triển theo hai hướng khác nhau nhưng trong
tình trạng luôn căng thẳng, tuy vậy trong khoảng thời gian các nước lớn có
những cuộc gặp nhau nhằm giảm bớt căng thẳng thì hai miền cũng theo xu thế này
tiến hành các cuộc tiếp xúc, đối thoại, chẳng hạn đàm phán tìm kiếm người dân
mất tích, thất lạc trong chiến tranh. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam cuối những
năm 60 trong quá trình đàm phán để tìm kiếm một giải pháp hòa bình nhưng những
hoạt động quân sự của Mỹ và đồng minh đã làm cho tiến trình đàm phán bị đình
lại, đến mãi năm 1975 hòa bình mới trở lại Đông Dương, cần phải nói thêm với
việc Việt Nam thống nhất tổ quốc đã giáng một đòn mạnh vào chính sách toàn cầu
của chủ nghĩa đế quốc, góp phần ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì dân chủ, tự do và
hòa bình cho các lực lượng tiến bộ.
Các nước ASEAN theo đuổi
lập trường “trung hòa” và kêu gọi các quốc gia khác tôn trọng quan điểm này.
Điều này cho thấy các nước nhỏ đang muốn tìm kiếm và bảo đảm vị trí trong cuộc
đồng quốc tế một cách tự chủ, độc lập, không bị lệ thuộc, ảnh hưởng bởi cực nào
của thế giới. Các khu vực khác trên thế giới: Trung Đông, Châu Phi, Trung và
Nam Mỹ cũng có những biến đổi về kinh tế - chính trị - xã hội, mặc dù một số
vấn đề xung đột biên giới, chủng tộc luôn ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước,
khu vực. Nhìn chung, đây là một lực lượng quan trọng trong “thế giới thứ ba” đang vươn lên khẳng định tiếng nói độc lập trên
các diễn đàn quốc tế.
Điều quan trọng là mối
quan hệ Mỹ - Xô với những biến đổi tiếp theo một cách đầy thăng trầm, mối quan
hệ này biến đổi phù hợp trước hết là vì lợi ích bản thân hai nước. Xu hướng hòa
dịu trong quan hệ Đông - Tây bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 50, sau một
thời gian chững lại đến giai đoạn này được khơi dậy. Cả Mỹ và Liên Xô xuất
hiện không ít khó khăn để duy trì thế cân bằng chiến lược, những khoản chi tiêu
khổng lồ cho việc chạy đua vũ trang đã khiến hai nước mất dần ưu thế cạnh tranh
về kinh tế với các nước khác. Do vậy, vấn đề đi đến thỏa thuận hạn chế vũ khí
chiến lược là cách để hai nước chú tâm phát triển hơn các vấn đề khác, đàm
phán, cắt giảm chạy đua vũ trang đã trở thành một trong những vấn đề trung tâm trong
quan hệ hai nước. Các cuộc gặp cấp cao giữa lãnh đạo hai nước luôn nhận được sự
quan tâm lớn của thế giới, sau nhiều lần gặp mặt hai nước đã đi đến kí kết
nhiều hiệp định quan trọng, như hội nghị cấp cao Xô -Mỹ tháng 5-1972 kí hiệp
ước SALT “lần đầu tiên thế cân bằng Xô - Mỹ
được chính thức công khai thừa nhận” [6;23], góp phần đưa thế giới đến gần
hơn với “hòa bình”. Nhưng sự phức tạp, thăng trầm trong quan hệ Mỹ - Xô khó
đoán định được, bước sang cuối thập niên 70 đầu những năm 80 lại xuất hiện những
căng thẳng trong quan hệ hai nước, vượt khỏi khả năng khống chế của cả hai siêu
cường, Mỹ với cuộc khủng hoảng chính trị tại Iran (11-1979), khó khăn trong
nước; Liên Xô đưa quân vào Apganixtan gây nên sự phản đối mạnh mẽ từ cộng đồng
quốc tế (12-1979); khủng hoảng vấn đề Campuchia…..
Chiến tranh lạnh kết thúc đồng nghĩa với việc
kết thúc cuộc đối đầu Đông - Tây, dẫn đến sự thay đổi lớn trong quan hệ quốc tế
và chính “sự tương tác giữa các chủ thể
trong quan hệ quốc tế là nhân tố quyết định sự vận động thường xuyên của hệ
thống quan hệ quốc tế”.
Như vậy, tình hình quốc tế
giai đoạn 1959 - 1979 có những biến chuyển quan trọng, điều này ảnh hưởng mạnh
đến quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc.
2.2. Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô thời kì sống gió và chia rẽ (1959 - 1979)
2.2.1.
Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô giai đoạn
1959 - 1969
Sau
mười năm xây dựng mối quan hệ đồng minh chiến lược, đến cuối những
năm 1959 đầu những năm 1960, quan hệ giữa hai nước từng bước rạn nứt
và dần đi đến chỗ đoạn tuyệt trong quan hệ ngoại giao. Mâu thuẫn ngày
một tăng với Matxcơva đã được phản ánh rõ nét trong cuộc khủng hoảng
chính trị tại Bắc Kinh vào mùa hè năm 1959. Mao Trạch Đông, người đấu
tranh cho bước đại nhảy vọt, rất phiền muộn vì sự thất bại của nó
và buộc phải chấp nhận lời khiển trách về điều đó. Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng Trung Quốc Bành Đức Hoài, người vừa trở về sau chuyến
viếng tham Liên Xô, lên tiếng mạnh mẽ chống lại chính sách của Mao và
ủng hộ việc duy trì “kiểu mẫu Xô
Viết” mà ông cho là cần thiết cho công cuộc hiện đại hóa quân sự Trung
Quốc. Sự kiện này làm Mao rất tức giận, ông lãnh đạo một cuộc đấu
tranh chống lại Bành, buộc tôi Bành Đức Hoài phản bội. Ngay sau đó,
Bành Đức Hoài bị cách chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Lâm Bưu là
người được chọn thay thế. Vừa mới cầm quyền, Lâm Bưu ngay lập tức
tuyên bố, Trung Quốc không cần sự giúp đỡ về kĩ thuật và quân sự
của Liên Xô trong lĩnh vực quốc phòng.
Năm 1959, Khrushev sang
tham Mỹ, hội đàm với tổng thống Mỹ Aixenhao ở trại David, khi trở về
đã đến Bắc Kinh và không quên nhắc nhở các nhà lãnh đạo Trung Quốc
phải tránh đối đầu với Mỹ về vấn đề Đài Loan. Điều này càng làm
cho Trung Quốc nghi ngờ Khrushev thỏa hiệp với Mỹ bất chấp lợi ích
của Trung Quốc.
Trong đại hội XXI, các
Đảng cộng Sản đầu năm 1959, Khrushev đề nghị thành lập một vùng phi hạt nhân ở
Viễn Đông - Thái Bình Dương nhưng đã bị Trung Quốc bác bỏ. Ngày 20-6, Liên Xô
thông báo với Trung Quốc do sự thỏa thuận giữa nước này với Mỹ về việc hạn chế
cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nên Matxcơva sẽ không cung cấp thêm cho Bắc
Kinh bất kì sự hỗ trợ nào về công nghệ hạt nhân, do đó thỏa thuận kí kết năm
1957 sẽ không còn hiệu lực. Với việc chính sách hỗ trợ hạt nhân bị “đảo ngược” đã góp phần gia tăng thêm
căng thẳng trong quan hệ hai nước, mãi sau này trong báo cáo tháng 8-1963 Trung
Quốc đã chỉ trích “đấy là quà tặng mà các
nhà lãnh đạo Liên Xô dành cho Aixenhao trong chiến thăm đến Hoa Kì tháng 9-1959”,
vì chuyến thăm Mỹ, cả hai nước đã có những thỏa thuận quan trong về một số vấn
đề vốn trước đây khác nhau về quan điểm.
Một vấn đề làm cho mâu
thuẫn Trung - Xô là thái độ của Liên Xô đối với sự tranh chấp giữa Trung
Quốc và Ấn Độ về vấn đề Tây Tạng và biên giới lãnh thổ giữa hai
nước. Liên Xô đã công bố lời giải thích của cả hai chính phủ và đề
nghị làm trung gian hòa giải. Ngày 29-9-1959, TASS ra thông báo bày tỏ
ý kiến rằng cuộc đụng độ giữa Trung Quốc và Ấn Độ đã ảnh hưởng
xấu đến lí tưởng chung sống hòa bình. Bản thông báo viết tiếp: “Không thể không bày tỏ sự hối tiếc
về biến cố đang diễn ra trên biên giới Trung - Ấn. Liên Xô duy trì các
mối quan hệ thân hữu với cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lẫn với Ấn
Độ…”. Bản thông báo kết thúc bằng câu: “Giới lãnh đạo Xô Viết tin tưởng rằng hai chính phủ sẽ giải
quyết những hiểu lầm theo cách có tính đến quyền lợi của nhau và
theo tinh thần của quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nhân dân Trung
Quốc và Ấn Độ” [3;121].
Đây là lần đầu tiên kể
từ khi Hiệp ước liên minh Trung - Xô được kí kết, Liên Xô đã không chọn
đứng về phía Trung Quốc trong cuộc xung đột quốc tế có liên quan đến
nước này.
Phản ứng của Liên Xô
đã khiến Trung Quốc rất bực tức. Với tư cách là bạn đồng minh của
Liên Xô, giới lãnh đạo Trung Quốc trông chờ sự tự động tán thành của
Matxcơva đối với cách biện giải của họ. Nhưng các chuyên gia Xô Viết
đã không tin vào sự đúng đắn của Trung Quốc, và chính phủ Xô Viết
thấy nên có thái độ trung lập. Hơn thế nữa, ngày 12-9, Liên Xô đã kí
một hiệp ước cung cấp cho Ấn Độ một khoản tín dụng trị giá 1,5 tỉ
rúp (lớn hơn bất cứ khoản viện trợ nào của Liên Xô cấp cho Trung
Quốc trước đó) để thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ V của Ấn Độ.
Trong thời gian chiến tranh Trung - Ấn, Khrushev đã chỉ trích Trung Quốc
tại hội nghị tối cao Liên Xô, ông còn hùng hổ hỏi: “tại sao Trung Quốc không đi thu hồi Đài Loan, Ma Cao mà lại đi
gây rắc rối với Ấn Độ” [9;59].
Đầu những năm 60, sự chia
rẽ trở nên rõ ràng và thực tế, bất đồng giữa hai Đảng chính thức được
công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tháng 1-1960, tạp
chí Hồng Kỳ của Trung Quốc đăng bài “Chủ
nghĩa Lênin muôn năm” là sự kiện đầu tiên công khai hóa sự bất ổn
trong quan hệ hai nước. Quan hệ Trung - Xô tiếp tục căng thẳng khi một quyết
định được cho là đơn phương gây ra “cú
sốc” cho nền kinh tế Trung Quốc khi nước này đang ra sức khắc phục khó khăn
từ phong trào Đại nhảy vọt, tháng 7-1960 Liên Xô quyết định thu hồi tất các hỗ
trợ về kinh tế, chuyên gia kĩ thuật đang làm việc tại Trung Quốc: khoảng 1390
chuyên gia, 343 hợp đồng liên quan đến hỗ trợ kĩ thuật, 275 dự án hợp tác khoa
học kĩ thuật không được hoàn thành sau đại hội III Đảng cộng sản Rumani tháng 6-1960.
Như vậy sự bất đồng về hình thái ý thức giữa hai Đảng đã mở rộng sang quan hệ
cấp nhà nước.
Đến năm 1962, mâu thuẫn
giữa hai nước càng xấu thêm bởi cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba
(tháng 10-1962). Việc Liên Xô rút tên lửa ra khỏi Cuba được Trung Quốc xem là sự
đầu hàng trước hành động xâm lược của đế quốc [14;161]. Những bất
đồng giữa hai Đảng ngày càng lớn và sự đấu tranh gay gắt giữa hai
nước không ngừng tăng lên. Những cuộc tranh cãi bằng ngôn từ giữa hai
bên không còn mang tính chất của một cuộc luận chiến nữa, mà mau
chóng biến thành hành động đã kích lẫn nhau. Tháng 12-1962, tại Hội
nghị Xô Viết Tối cao và trước sự có mặt của Tito, Khrushev tố cáo
giới lãnh đạo bắc Kinh đã đễ “một
số lãnh thổ Trung Quốc tiếp tục chịu sự chiếm đóng của nước
ngoài”. Ông còn khẳng định “cuộc
khủng hoảng Cuba
đã chứng tỏ rằng hiện nay chủ nghĩa giáo điều là nguy cơ chủ yếu”. Còn
Mao Trạch Đông nhận xét trong nội bộ: “chuyên
chính ở Liên Xô hiện nay là chuyên chính tư sản, chuyên chính đại tư
sản, chuyên chính của phát xít Đức, chuyên chính kiểu Hitler” [3;125].
Bước sang năm 1963, cuộc
luận chiến đã bùng ra công khai trên tất cả các phương tiện thông tin
đại chúng. Từ cuối tháng 12-1962 đến đầu tháng 3-1963, Nhân dân Nhật báo công bố bốn bài
chỉ trích Khrushev. Ông này phản ứng lại bằng cuộc vận động họp hội
nghị quốc tế khai trừ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để trả đũa, Trung
Quốc cũng tích cực không kém trong nỗ lực tổ chức hội nghị gồm một
số Đảng Cộng sản Châu Á và hai Đảng Cộng Sản Đông Âu (Albania và
Romania) để thành lập một phong trào Cộng sản quốc tế do Trung Quốc
lãnh đạo. Trước diễn biến ngày càng xấu trên, đã nảy sinh sức ép
đòi giới lãnh đạo hai Đảng có thế lực nhất trên thế giới tiến hành
hội đàm. Ngày 21-2-1963, TW Đảng Cộng sản Liên Xô đề nghị đình chỉ
công khai và tiến hành hội đàm ở cấp “thượng đỉnh” hay “cấp cao”
giữa hai Đảng. Sau cuộc gặp gỡ giữa những nhà lãnh đạo hai Đảng ở Matxcơva
(từ ngày 5 đến ngày 20-7-1963) trong bầu không khí căng thẳng, bế tắc,
cuộc chiến về chính trị giữa hai
nước chính thức bất đầu, công kích lẫn nhau thông qua thư từ, báo
chí; chia rẽ Đảng phái, chống đối lẫn nhau. Trong bức thư ngày 30-3-1963,
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (BCHTWĐCS) Liên Xô đã lên án BCHTWĐCS Trung Quốc có những đã
kích không có căn cứ đối với BCHTWĐCS Liên Xô. Ngay sau đó, ngày 14-6-1963,
BCHTWĐCS Trung Quốc gửi thư phản đối Liên Xô và tiếp tục đưa ra những
lời lên án Liên Xô, về việc Liên Xô yêu cầu Trung Quốc rút năm nhân viên
của Đại sứ quán Trung Quốc tại Liên Xô và nghiên cứu sinh của Trung
Quốc ở Liên Xô về nước. Trung Quốc khẳng định: Liên Xô tiếp tục làm cho mối quan hệ hai bên xấu đi nghiêm
trọng, rằng Liên Xô là “Chủ nghĩa xét lại”, “chủ nghĩa bành chướng
bá quyền” [13;34]. Tiếp đến,
tháng 8-1963, Liên Xô - Mỹ - Anh đã kí kết một “Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân”, đây được xem là một
thành tựu lớn trong nỗ lực giải trừ vũ khí hạt nhân, mà Khrushev đã
bỏ vào đó không ít công sức và thời gian. Hiệp ước này đối với Trung
Quốc là một sự hủy hoại lớn, đánh dấu việc Trung Quốc bị ngăn cản
bởi chính các đồng chí Cộng sản để ủng hộ thế giới tư bản [14;161].
Nó có nghĩa là còn nhiều hơn sự cô lập về ngoại giao, là sự cô lập
chiến lược. Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc xem hiệp ước đó
chỉ là “một trò bịp bợm vĩ đại,
làm mê mẫn nhân dân toàn thế giới và… hoàn toàn đi ngược lại nguyện
vọng của nhân dân yêu chuộng hòa bình ở tất cả các nước. Không thể
hình dung được rằng Chính phủ Trung Quốc sẽ tham gia trò bịp bợm
này…”. Đánh giá này đã đưa Bắc Kinh đến kết luận sau: “những sự kiện không thể bác bỏ được
đã cho thấy rằng chính sách mà Chính phủ Xô Viết đang tiến hành là
chính sách liên minh với lực lượng chiến tranh chống lại lực lượn
hòa bình, liên minh với CNĐQ để chống lại CNXH, liên minh với Mỹ để
chống Trung Quốc, liên minh với bọn phản động các nước đấu tranh chống
nhân dân toàn thế giới” [3;127].
Cùng với sự bất đồng
về chính trị giữa hai nước ngày càng tăng thì vấn đề biên giới cũng
trở nên ngày càng căng thẳng. Cuộc đàm phán thứ nhất về biên giới Trung
- Xô được tiến hành từ tháng 2 đến tháng 7-1964, nhưng hai bên không kí
được hiệp định. Trung Quốc đưa ra những yêu sách đòi Liên Xô trước hết
phải công nhận sự bất công của hiệp ước Nga - Hoa kí trước đó về
biên giới nhằm dùng lý lẽ đó làm
cơ sở đễ giải quyết vấn đề biên giới bằng thương lượng. Còn lập
trường của Liên Xô là sẽ xác định lại một cách cụ thể đường biên
giới ở những đoạn nhất định, lấy
những văn kiện hiện hữu và những điều đã được kí kết giữa Nga và Trung
Quốc trước đó làm cơ sở vì việc phân định đường biên giới Nga -
Hoa đã được hơn một trăm năm và trong thời gian đó có một số vùng đã
thay đổi, nhiều nơi mốc biên giới cũ không còn nữa. Sau cuộc đàm phán
thứ nhất không thành, vết rạn nứt trong quan hệ Liên Xô - Trung Quốc
ngày càng lớn, dòng chảy trong quan hệ Liên Xô - Trung Quốc đã thực
sự tắc nghẽn.
Đến tháng 9-1964, Trung
Quốc lại yêu cầu xét lại các vùng lãnh thổ biên giới hai nước, nhưng
các cuộc đàm phán diễn ra đều hoàn toàn bế tắc vì lập trường hai
nước không thay đổi. Vấn đề then chốt làm cho các cuộc đàm phán Trung
- Xô bi bế tắc vẫn là những yêu sách của Bắc Kinh về lãnh thổ đối
với Liên Xô. Sự bế tắc trong đàm phán đã đẩy quan hệ Trung - Xô đến
tột cùng căng thẳng và kết quả tất yếu là “chiến tranh chính trị” được thay bằng “ chiến tranh vũ trang” [13;36].
Sau khi ban lãnh đạo
mới của Liên Xô được bầu ra tại hội nghị BCHTWĐCS Liên Xô (tháng 10-1964),
quan hệ giữa hai nước vẫn tiếp diễn theo chiều hướng xấu đi. Trong cuộc
tiếp xúc với thủ tướng Liên Xô Kosygin tháng 2-1965, Mao Trạch Đông
tuyên bố Bắc Kinh sẽ tiếp tục “cuộc
chiến tranh bằng giấy” chống Liên Xô. Về phần mình, tháng 4-1966,
chủ tịch Xô Viết tối cao Podgorniy tuyên bố các đường biên giới hiện
tồn của Liên Xô là bất khả xâm phạm [3;128].
Cuộc tấn công của Mao
Trạch Đông vào Liên Xô lên đến đỉnh điểm vào mùa hè năm 1966 khi ông ta
tiến hành một cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, một chiến dịch được xây
dựng để tiếp thêm sinh khí cho cách mạng Trung Quốc. Chương trình
chính trị này chứa đựng mục đích chống lại Liên Xô rất mạnh mẽ, Mao
Trạch Đông kêu gọi người Trung Quốc thanh trừ những nhà lãnh đạo mà
ông cho rằng đã cố gắng thiết lập “Chủ nghĩa Cộng sản kiểu Xô Viết”
ở Trung Quốc. Trung Quốc cũng tăng cường đả kích Liên Xô và tìm cách
li gián Liên Xô với các nước XHCN khác. Năm 1968, khi nổ ra sự kiện “mùa xuân Prague”, Liên xô đưa quân
vào Tiệp Khắc, Trung Quốc cùng Albania Romania lên án đó là “hành động xâm lược đế quốc chủ
nghĩa” và gọi Liên Xô là “Đế
quốc xã hội”. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ IX họp
tháng 4-1969, xác định Liên Xô là kẻ thù và chính thức ghi điều này
vào cương lĩnh chính trị.
Sự căng thẳng giữa hai
cường quốc Cộng sản ngày càng tăng lên về phương diện biên giới lãnh
thổ. Vào tháng 2-1969, cuộc chạm trán giữa quân đội Trung Quốc và
Liên Xô bất thình lình nổ ra trên đảo Damansky (Trung Quốc gọi là đảo
Trân Bảo) trên sông Ussuri, khi một số lính biên phòng Trung Quốc cố
tìm cách đổ bộ lên đây. Nhiều nhà phân tích thời cuộc quốc tế cho
rằng những người lãnh đạo Bắc Kinh mà giờ đây chịu sự chi phối gần
như hoàn toàn của Mao Trạch Đông, đã cố tình làm to chuyện “mối đe dọa Liên Xô” để huy động sự
ủng hộ trong nước trước Đại hội IX diễn ra trong tháng 4-1969. Đại
hội đã đưa Liên Xô lên hàng kẻ thù số một của Trung Quốc, biến vấn
đề chống Liên Xô thành quốc sách và đưa nó vào cương lĩnh chính Trị
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau khi Trung Quốc phát động cuộc tấn công
thì Liên Xô phản công lại bằng pháo binh, xe tăng máy bay, đẩy lui quân Trung
Quốc. Kết quả, phía Trung Quốc có khoảng 800 binh lính chết so với 50
binh lính Liên Xô. Mặc dù việc đình chiến được lên kế hoạch, nhưng chiến tranh biên giới
này vẫn kéo dài đến hết năm. Một cuộc chiến tranh toàn diện giữa Trung
Quốc và Liên Xô dường như sắp diễn ra. Trong hoàn cảnh này, các nhà
lãnh đạo ở Bắc Kinh bắt đầu xem xét việc chấm dứt tình trạng cô
lập ngoại giao và cải thiện mối quan hệ
của họ với Mỹ [14;163].
Chiều hướng quan hệ ngày
càng xuống thấp, đầu năm 1969 từ sự tranh chấp ý thức hệ đã dẫn đến đối đầu
quân sự trực tiếp, Liên Xô loan tin sẽ dùng vũ khí hạt nhân để tấn công Trung
Quốc, ngày 28-8-1969, Đại sừ Liên Xô tai Mỹ Đôbrưnin nhận được mật
lệnh của Brezhnev: “vì lợi ích
chiến lược chung của ta và Mỹ, đại bản doanh quân ta chuẩn bị đánh
vào những mục tiêu quân sự quan trọng của Trung Quốc theo kiểu “phẩu
thuật ngoại khoa”, nhằm loại bỏ vũ khí hạt nhân của Trung Quốc…
chúng ta chỉ công kích những mục tiêu quân sự, chắc chắn sẽ không làm
hại đến dân thường; năng lượng mà chúng ta giải phóng sẽ khống chế
ở một giới hạn nhất định, không gây ô nhiễm cho bầu khí quyển và cũng
không ảnh hưởng nhiều đến sự cân bằng sinh thái của trái đất” [8;579]. Nhiều quan sát viên đã tiên đoán chiến tranh: cựu
nhà báo Mỹ Harrison Salisbury đã
xuất bản một cuốn sách có tên “Chiến tranh sắp
tới giữa Nga và Trung Quốc” và trong tháng 8 năm 1969, các nguồn tin Liên Xô có gợi ý
đến một cuộc tấn công Lop Nor
(La Bố Bạc) bằng
vũ khí nguyên tử. Các tài liệu Liên Xô từ mùa hè năm 1969 cho thấy rằng Liên Xô
có các kế hoạch chi tiết cho một cuộc tấn công nguyên tử vào Trung Quốc hơn là
một cuộc tấn công nguyên tử vào Hoa Kỳ. ngày 16-9-1969 tại London, Victor
Louis nổi tiếng như một đặt vụ có thế lực của KGB, cảnh báo trong
một bài luận rằng: “tên lửa hạt
nhân của Nga đang nhắm vào các phương tiện hạt nhân của Trung Quốc” và
rằng “chỉ huy cấp cao của Liên Xô
thích sử dụng tên lửa đối phó với sức người”. Ông nói thêm rằng Matxcơva đã
có một “kế hoạch triển khai cuộc
không kích vào Lop Nor, trung tâm hạt nhân của Trung Quốc” và rằng “liệu Liên Xô dám tấn công Lop Nor hay
không là một câu hỏi chiến lược và vì vậy thế giới chỉ có thể học
được điều này sau khi nó kết thúc” [15;128,129]. Mỹ hiểu rằng bài viết này là
thăm dò phản ứng của Mỹ, cũng là cảnh cáo Trung Quốc.
Sự đe dọa là quá rõ
ràng và nguy hiểm, nó có vẽ là lời cảnh cáo chính thức tứ phía Matxcơva. Trung Quốc ra sức phát
động chiến dịch toàn quốc nhằm chống lại cuộc xâm lược từ điện Kremlin. Quyết sách
của Mao Trạch Đông là: căn cứ tên lửa đạn đạo vào trạng thái sẵn
sàng chiến đấu, mở thông tất cả các trạm dẫn mặt đất. Mỹ cũng tỏ
thái độ với Liên Xô, tổng thống Nixon kí mật lệnh: “một khi Liên Xô có một tên lửa tầm trung rời bệ phóng, Mỹ sẽ
thực hiện kế hoạch đánh trả, đánh đòn hạt nhân vào hơn 130 thành
phố và cơ sở quân sự của Liên Xô” [9;67]. Điều làm cho Liên Xô hoàn
toàn không nghĩ tới là ngày 23, ngày 29-9-1969, Trung Quốc đã lần
lược cho nổ phân rã hạt nhân trong lòng đất đương lượng 20.000 đến
25.000 tấn, và cho nổ bom H, loại máy bay oanh tạc ném xuống, đương
lượng 3 triệu tấn. Thông tấn xã Associated Press - AP bình luận: “hai lần thí nghiệm vũ khí hạt nhân
gần đây của Trung Quốc,không để giành lấy một thành quả nào đó, mà
là một loại trắc nghiệm trước cuộc chiến” [9;68].
Như vậy mốc năm 1969, đánh
dấu sự thay đổi hoàn toàn quan hệ Trung - Xô, từ đồng minh chiến lược sang đối
đầu bằng các cuộc xung đột vũ trang, đẩy hay nước sang hai chuyến tuyến
hoàn toàn đối đầu và thù địch với nhau. Cuộc chiến tranh lạnh vẫn hiện
hữu với hai cực và trong mỗi cực lại có chia rẽ, điều này sẽ là cơ hội cho cực
còn lại lợi dụng những bất đồng trong cuộc chiến lãnh đạo thế giới, khẳng định
tính ưu trội của hệ tư tưởng mà nước đó đang đi theo. Matxcơva chính thức trở
thành một trong những yếu tố đưa Mỹ - Trung xích lại gần nhau, điều này trước
hết giúp thúc đẩy một sự cân bằng quyền lực có lợi cho Mỹ ở Đông Á.
2.2.2. Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô giai đoạn
1969 - 1979
Thật ra, trước khi quan hệ giữa hai nước
thoái hóa đến mức xem nhau như kẻ thù, cả hai đã cố gắng tổ chức
những cuộc đàm phán nhằm cứu vãn những gì còn có thể cứu vãn
được. sau các cuộc đụng độ năm 1969, dường như cả hai phía đều rút lại tránh rơi vào bờ
vực chiến tranh. Ngày
11-9-1969, tại Bắc Kinh đã diễn ra cuộc gặp gỡ bí mật giữa chủ tịch
Hội đồng bộ trưởng Liên Xô Kosygin và thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Tuy
Không có một thỏa thuận nào được đạt đến nhưng các
cuộc gặp gỡ đã phục hồi lại một sự tối thiểu về liên lạc ngoại giao và
hai bên quyết định đưa ra các biện pháp nhằm bình thường hóa tình
hình ở biên giới, bổ nhiệm đại sứ ở cả hai thủ đô.
Ngày 20-10-1969, ở Bắc Kinh bắt đầu diễn ra
các cuộc đàm phán ở cấp thứ trưởng ngoại giao về biên giới. Nhưng
chúng mau chóng trở thành diễn đàn để cả hai có dịp trình bày quan
điểm, lập trường của mình. Trong hoàn cảnh như vậy, ảnh hưởng của
chúng đến quan hệ chính trị và ngoại giao giữa hai nước tất nhiên là
không đáng kể. Quan hệ giữa hai nước cứ căng thẳng dần theo số lượng
quân lính và trang thiết bị quân sự mà cả hai nỗ lực dồn về vùng
biên giới của nhau [14;163,164].
Thập niên 70, sự thù nghịch Trung
- Xô cũng lan đến Châu Phi và Trung Đông nơi mà mỗi thế lực Cộng sản
ủng hộ và tài trợ những Đảng phái, phong trào, và quốc gia khác
nhau. Điều này đã châm ngòi cho các cuộc chiến tranh giữa Ethiopia và
Somalia, các cuộc nội chiến tại Zimbabwe, Angola và Mozambique, và sự
thù nghịch giữa các nhóm cực đoan người Palestine khác nhau. Không như
Liên Xô, Trung Quốc thực Sự đã không đưa quân đến bất cứ điểm nóng
nào vừa kể ở trên, nhưng sự can thiệp có tính cạnh tranh của họ đã
tạo nên và kéo dài bất ổn.
Sự đối đầu giữa hai nước xã hội chủ
nghĩa lớn nhất ở thời điểm này là mong chờ của Mỹ, là cơ hội vàng
để Mỹ kéo Trung Quốc về phía mình, tăng thêm đồng minh và sức mạnh
để chống Liên Xô. Về phía Trung Quốc với tư tưởng “kẻ thù của kẻ thù là bạn”, Trung Quốc đã nhanh chóng
ngã về phía Mỹ, chấm dứt thời kì thực hiện chính sách đối ngoại “giương cung bắn cả hai phía” của
những năm 1960, chuyển hướng sang thực hiện chính sách đối ngoại “hợp tung” bắt tay với Mỹ, dựa vào
Mỹ để phát triển và chống Liên Xô [13;37].
Mốc đánh dấu việc Trung Quốc hoàn toàn ngả
về phía Mỹ, quay lưng lại với Liên Xô là tháng 2-1972, sau chuyến
viếng thăm Trung Quốc của tổng thống Nixon, hai bên đã ra “Thông cáo Thượng Hải”. Thông cáo
Thượng Hải đã trở thành sợ dây ràng buộc Trung Quốc và Mỹ vào một
mối quan hệ “Đồng minh” mới: cùng chống “Chủ nghĩa bá quyền” Liên Xô [13;37].
Sau Thông cáo Thượng Hải, quan hệ Mỹ - Trung
nhanh chóng phát triển. Trục “liên
hoành” Mỹ - Trung đã tạo điều kiện cho cả Mỹ và Trung Quốc đẩy
mạnh các hoạt động chống Liên Xô: Mỹ đẩy mạnh chạy đua vũ trang, đẩy
mạnh cuộc chiến tranh ở Đông Dương để thủ tiêu chủ nghĩa Cộng sản; Trung
Quốc tuyên bố không gia hạn “Hiệp ước
đồng minh Trung - Xô” ; ủng hộ việc duy trì “Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật” ở Châu Á - Thái Bình Dương; Trung
Quốc tán thành sự có mặt của Mỹ ở Đông Nam Á và đặt quan hệ với
NATO [13;37].
Vào năm 1970, Mao nhận thấy rằng ông không thể đối đầu một lúc với
cả Liên Xô và Hoa Kỳ và ngăn chặn những bất ổn trong nước. Trong năm đó, mặc dù
sự thật là Chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn cao điểm và thái độ chống Mỹ
của Trung Quốc đang ở đỉnh cao, Mao đã quyết định rằng Liên Xô là một mối đe dọa
lớn nhất vì vị trí địa lý của nó ở ngay bên cạnh Trung Quốc, ông ta muốn tìm
một sự hòa giải với Hoa Kỳ để đương đầu với Liên Xô.
Tháng 7 năm 1971, Henry Kissinger bí
mật viếng thăm Bắc Kinh và dọn đường cho Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon sang thăm Trung Quốc tháng
2 năm 1972. Mặc dù Liên Xô lúc đầu rất giận dữ, chẳng bao lâu sau đó họ cũng tổ
chức một cuộc họp thượng đỉnh riêng với Nixon, như thế tạo ra một quan hệ tay
ba giữa Washington, Bắc Kinh, và Matxcơva. Việc này kết thúc thời kỳ đối đầu
tồi tệ nhất giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Đầu năm 1971, Liên Xô đề nghị Trung Quốc ký
Hiệp ước không sử dụng vũ lực trong quan hệ; năm 1973 Liên Xô lại kiến
nghị ký hiệp ước không tấn công lẫn nhau giữa hai nước, nhưng Trung
Quốc đã bác bỏ hai yêu cầu trên của Liên Xô; thậm chí các nhà lãnh
đạo Trung Quốc còn kêu gọi thành lập mặt trận toàn thế giới để
chống Liên Xô, chống “Chủ nghĩa bá
quyền thế giới”… Thực chất cả Mỹ và Trung Quốc điều muốn lợi
dụng nhau để đạt được mục đích của mình, còn quan hệ Trung - Xô bị
đẩy vào tình trạng không chỉ căng thẳng mà còn là thù địch suốt
thậm kỉ 70 của thế kỉ XX [13;37].
Sự rời khỏi quyền lực của Lâm Bưu năm 1971 đánh dấu hồi kết
thúc giai đoạn cực độ nhất của cuộc Cách mạng Văn hoá và từ đó trở đi cho đến
khi Mao mất vào năm 1976, có một sự trở lại dần dần chế độ cộng sản bình thường
tại Trung Quốc. Nó kết thúc tình trạng đối đầu quân sự với Liên Xô nhưng không
đưa đến bất cứ sự tan băng nào trong các quan hệ chính trị. Dù vậy, việc tăng
cường quân sự của Liên Xô trên biên giới với Trung Quốc vẫn tiếp tục: năm 1973,
gần như Liên Xô có gấp đôi quân số của mình hiện diện tại biên giới so với năm
1969. Trung Quốc tiếp tục lên án “chủ
nghĩa đế quốc xã hội Xô Viết” và tố cáo Liên Xô là kẻ thù của Cách mạng Thế giới. Mặc dù
chính Trung Quốc đã ngừng hỗ trợ trực tiếp cho các nhóm cách mạng tại những
quốc gia khác sau năm 1972, và ủng hộ cho một cuộc chấm dứt Chiến tranh Việt Nam trong thương thuyết
năm 1973.
Quan hệ Trung - Xô căng thẳng bao nhiêu thì quan
hệ Trung - Mỹ càng phát triển bấy nhiêu. Từ tháng 8-1973, sau Đại hội
X Đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ trương chống Liên Xô của đường lối
đối ngoại Bắc Kinh đã được xác nhận về mặt pháp lý. Trung Quốc
chính thức khẳng định có “mối đe
dọa từ phía Liên Xô” và khả năng “xảy
ra một cuộc tấn công bất ngờ từ Liên Xô”. Sau đại hội, năm 1974
chủ tịch Mao Trạch Đông đã đưa ra và nhấn mạnh học thuyết “Ba thế giới”, Liên Xô bị xếp vào
thế giới thứ nhất đứng chung hàng với Mỹ, và do đó là kẻ thù của
thế giới thứ ba, mà trong đó Trung Quốc là một thành viên. Chưa hết,
trong hai siêu cường, Liên Xô là kẻ nguy hiểm hơn cả khi đang theo đuổi
chính sách “bá quyền”, và cũng
bởi vì thế lực Mỹ đang trên đà xuống dốc và bản thân nước này đang
là đối tượng của chính sách bành trướng Xô Viết. Tại kỳ họp quốc
hội tháng 1-1975, đường lối chống Xô Viết được nâng lên hàng quốc
sách khi nó được đưa vào bản hiến pháp mới của Trung Quốc. Có thể nhận xét một điều chủ thuyết
Ba thế giới là một chủ thuyết mang tính pháp lí, “bình phong” liên Mỹ để chống
lại Liên Xô. Với những tuyên ngôn và biện pháp hành động cụ thể đã góp phần đưa quan
hệ Trung - Xô xuống thấp hơn từ khi xung đột, mâu thuẫn công khai giữa hai nước
khởi phát.
Trước tình hình đó, nếu trong những năm
nửa cuối thập niên 60 của thế kỉ XX, Liên Xô thị uy sức mạnh ở Tiệp
Khắc và biên giới Trung - Xô thì
sang những năm 70 của thế kỉ XX, Liên Xô bắt đầu thị uy sức mạnh ở
Đông Dương. Bên cạnh đó, Liên Xô còn coi thường việc Trung Quốc chống “Chủ nghĩa bá quyền”, cuối năm 1979
Liên Xô đã huy động hàng vạn quân tiến vào Apganistan, tạo ảnh hưởng
trực tiếp đến Pakisstan và Trung Quốc. Ngoài ra, Liên Xô còn liên minh
với Ấn Độ để khống chế Trung Quốc từ phía Tây. Trung Quốc bị đẩy
vào tình thế phải chịu sức ép ở suốt dọc tuyến biên giới Đông Nam và Tây Nam , khiến cho toàn bộ tuyến
biên giới của Trung Quốc “không yên
ổn”.
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời tháng 9-1976
và “nhóm bốn tên” bị lật đổ
tháng 10-1976, ban lãnh đạo mới của Trung Quốc vẫn hầu như giữ nguyên
đường lối trong qua hệ với Liên Xô. Đại hội XI Đảng Cộng sản Trung
Quốc (8-1977), nhắc lại đường lối thù nghịch với Liên Xô và thậm chí
kêu gọi thành lập “Mặt trận thống
nhất quốc tế” phục vụ cuộc đấu tranh chống Liên Xô. Được hội
nghị đại biểu nhân dân toàn Trung Quốc thông qua tháng 3-1978, hiến
pháp mới đã đề cập đến sự cần thiết “sẵn sàng bảo vệ đất nước chúng ta khỏi hoạt động lật đổ và
xâm lược từ phía chủ nghĩa đế quốc - Xã hội và chủ nghĩa đế
quốc”. Ngày 3-4-1979, Chính phủ Trung Quốc tuyên bố không có ý
định kéo dài thời hạn Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ ký
ngày 14-2-1950 với Liên Xô.
Mâu thuẫn Trung - Xô trong thập kỷ 70 không
chỉ làm tổn hại đến qua hệ hai nước, gây bất ổn cho hệ thống XHCN,
mà còn tạo nên những đe dọa cho hòa bình, an ninh khu vực. Mối mâu thuẫn
này đã làm cho Châu Á - Thái Bình Dương không thể yên bình như tên gọi
của nó mà đứng trước nguy cơ bão táp, thậm chí phải đối mặt với “sóng thần” [13;38].
Sự tách biệt giữa Liên Xô
và Trung Quốc càng trở nên nghiêm trọng và cho đến đầu thập niên 60
mối quan hệ của họ trở nên thù địch. Mâu thuẫn giữa hai cường quốc
này có ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ quốc tế. Khi xung đột Trung -
Xô xảy ra, cuộc chiến tranh lạnh, sự đấu tranh đầu tiên giữa hai cực
Đông - Tây trở nên phức tạp. Nó làm mất đi mối quan hệ tam giác giữa
Liên bang Xô Viết, Trung Quốc và Mỹ. Mâu thuẫn Trung - Xô làm suy yếu
hệ thống XHCN. Hậu quả tất yếu là Mỹ và các nước Phương Tây ra sức
khai thác mâu thuẫn này phục vụ cho chính sách của họ. Mâu thuẫn Xô
Trung tiếp tục xấu đi cho đến cuối thập niên 80 mới được cải thiện.
Thực chất, nguyên nhân của sự căng thẳng
trong quan hệ Trung - Xô phải được nhìn từ nhiều góc độ:
Thứ
nhất: xét về hình thức, mâu thuẫn Trung - Xô được
nhìn thấy là bắt đầu từ sự bất đồng giữa hai Đảng của hai nước. Khi
Trung Quốc có những thất bại trong nước (cuộc khủng hoảng kinh tế -
xã hội đã đẩy con đường xây dựng XHCN “Đại nhảy vọt” của Mao Trạch
Đông vào bế tắc), Mao Trạch Đông đã phủ nhận con đường của Liên Xô,
phủ nhận sự sùng bái Liên Xô, đòi xét lại con đường XHCN do Liên Xô
khám phá và xây dựng, phê phán con đường “giáo điều của Liên Xô”. Trên
cơ sở đó, Trung Quốc muốn lựa cho mình một con đường riêng.
Bên cạnh những bất đồng về tư tưởng và
đường lối, vấn đề biên giới hai nước như chất xúc tác thúc đẩy nhanh
quá trình tan vỡ của mối quan hệ đồng minh chiến lược Xô - Trung, đẩy
Trung Quốc vào thế buộc phải liên minh với Mỹ để chống Liên Xô và
phục vụ lợi ích riêng của mình.
Thứ
hai: nhìn từ góc độ sâu xa của vấn đề, ta phải
nhìn từ tư tưởng của chủ nghĩa Mao, “Chủ
nghĩa dân tộc Đại Hán”. Trung Quốc vốn có tư tưởng chủ nghĩa
nước lớn từ trong lịch sử, đó là nền tảng của học thuyết thế giới
thứ ba của Mao Trạch Đông sau này. Đây là cốt lõi, là nền tảng “bất
biến” để Trung Quốc xây dựng đường lối đối ngoại qua các thời kỳ
một cách “khả biến”.
Chính từ nền tảng đó mà sau khi cách mạng
thành công và trong suốt thập niên 50 của thế kỉ XX, Trung Quốc không
thể không trở thành đồng minh của Liên Xô. Nhưng trong thời gian xây
dựng mối quan hệ “Đồng minh chiến
lược” ấy, một mặt vấn đề biên giới chưa được giải quyết thỏa mãn
khiến Trung Quốc “bằng mặt mà chẳng
bằng lòng”, song vẫn dựa vào Liên Xô để phát triển. Mặt khác,
Liên Xô là nước đi đầu trong công cuộc xây dựng XHCN, có tiềm lực mạnh
và nhất là nằm trong lòng cuộc chiến tranh lạnh, nên muốn đẩy mạnh
sự phát triển của hệ thống XHCN trên toàn thế giới, tất nhiên dưới
sự chi phối của Liên Xô. Vì thế, Trung Quốc sau khi đã có những bước
phát triển nhất định, muốn khẳng định tư tưởng nước lớn của mình
nhưng chưa thể vượt lên được Liên Xô. Vì không chịu coi Trung Quốc là
một cường quốc bình đẳng, nên Liên Xô trở thành “chướng ngại vật” trên con đường và tham vọng của Trung
Quốc. Trong hoàn cảnh đó, tất yếu Trung Quốc sẽ phải rẽ ngang trên
chặn đường liên minh với Liên Xô và duyên cớ đầu tiên Trung Quốc tạo ra
là xoáy sâu vào những bất đồng giữa hai Đảng của hai nước, tiếp đó
là vấn đề biên giới được đặt ra đã đẩy mối quan hệ đồng minh Trung -
Xô vào tan vỡ.
Thứ
ba: song song với những nguyên nhân sâu xa trên, ta
thấy trong thực tế của thập kỉ 60 và 70 của thế kỉ XX, Trung Quốc
chìm ngập trong khủng hoảng kinh tế, xã hội, những khó khăn trong
nước và nhu cầu về vốn, kỹ thuật… đã đẩy Trung Quốc xích lại gần
Mỹ với mong muốn có một kế hoạch Massan thứ hai trong lịch sử Mỹ
dành cho Trung Quốc, tạo “cú hích”
cho nền kinh tế Trung Quốc nhanh chóng phục hồi và phát triển. Sự
liên minh Trung - Mỹ là yếu tố quyết định trực tiếp làm tan vỡ hoàn
toàn mối quan hệ “Đồng minh chiến
lược Xô - Trung” [13;38,39].
Như vậy, chính sách chống Liên Xô của Trung
Quốc thực chất chỉ là phương tiện để Trung Quốc thực hiện những khát
vọng của mình, bởi đối với Trung Quốc “mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là giật được
chuột”, khiến cho quan hệ Trung - Xô liên tục biến đổi về bản chất.
Cục diện mâu thuẫn Trung - Xô đã thúc đẩy cho cuộc chiến tranh lạnh
giữa hai cực Xô - Mỹ diễn ra mạnh mẽ ngay trong lòng Châu Á, tác động
tiêu cực đến an ninh khu vực.
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ Trung Quốc
- Liên Xô (1959 - 1979)
2.3.1. Yếu tố Mỹ
Từ khi Liên Xô xuất hiện,
nó được xem như một quyền lực toàn cầu thực sự, sự gia tăng ảnh hưởng và vị thế
nước này trên trường quốc tế đã làm cho Mỹ lo ngại và bày tỏ quan điểm rằng “vấn đề của thời đại chúng ta là làm thế nào
quản lí sự xuất hiện của Liên Xô là một siêu cường”. Thập niên 60 sự đối
đầu của hai nước lớn trong khối XHCN là thời điểm “mong chờ” của Mỹ, là cơ hội để cho Mỹ kéo Trung Quốc về phía mình,
tăng thêm đồng minh và sức mạnh để chống Liên Xô [13;37] và thực tế cho thấy “những chia rẽ Trung - Xô chuẩn bị cho quá trình
hòa giải Trung -Mỹ bắt đầu vào những năm 70”. Đỉnh cao xung đột Trung - Xô
là thời điểm Mỹ đang diễn ra cuộc bầu cử tổng thống, kết quả là Richard Nixon
đã đắc cử vào Nhà Trắng. Những tin tức được báo cáo về Washington trong
thời gian này chưa tạo nên nhiều sự chú ý đậm nét về cuộc xung đột giữa hai
nước lớn nhất trong khối XHCN, bởi lúc này Nixon không có ở Mỹ, vị tổng
thống mới nhậm chức được tám tuần đang cùng với Ngoại trưởng của
mình là William P. Rogers đến viếng tham chính thức Châu Âu để chứng
minh rằng mình là một nhà lãnh đạo “Chính
sách ngoại giao”. Cả Rogers và Kissinger đều không rõ lắm về cuộc
xung đột Trung - Xô, hoặc bất cứ một sự am hiểu nào về lịch sử của
cuộc đối đầu sinh động tại khu vực biên giới này [15;92]. Cho dù không có bằng chứng, theo quan điểm của
mình, Nixon đã kết luận rằng Trung Quốc đã bất đầu có những động
thái quân sự, Bắc Kinh là một trong hai thế lực ngày càng hiếu chiến
hơn. Đến bây giờ, ông cũng bị mê hoặc bởi cuộc đổ máu bất ngờ này
giữa những người khổng lồ của Chủ nghĩa Cộng sản [15;92]. khoảng một
thời gian ngắn sau đó Nhà Trắng đã nhận ra lợi ích của vấn đề nếu biết tận dụng
nó một cách hợp lí, đúng thời điểm. Trong một báo cáo của tình báo Nhà Trắng về
các vấn đề nóng bỏng của tình hình thế giới đã kết luận “dựa vào thực tế mà Liên Xô và Trung Quốc hiện nay, dường như nhìn về
nhau với sự thù địch hơn là đối với Mỹ và sử dụng các mối quan hệ của mình với
Mỹ như một cách thức đánh bại chính sách của kẻ thù” [15;100]. Rõ ràng Mỹ
đang đánh giá cao vị trí và tầm quan trọng của họ theo tư tưởng “kẻ thù của kẻ thù là bạn” vì thực tế, cả
Trung Quốc và Liên Xô đang có những động thái thân thiện với Washington như một
cách để gia tăng đồng minh trong cuộc xung đột. “Căng thẳng sâu sắc giữa Matxcơva và Bắc Kinh sẽ đưa cả hai đối
thủ hướng tới ngưỡng cửa của Mỹ và sẽ tạo một cơ hội cho chính
sách của Mỹ” [15;92].
Trong khoảng hai thập kỷ
(1949 - 1972) quan hệ Mỹ - Trung không tồn tại chính thức, dù vậy kể từ năm
1960 cả hai nước dần nhận ra rằng việc hợp tác với nhau sẽ có lợi cho cả hai.
Quá trình này cũng phải mất nhiều năm để hiểu nhau.
Khi Nixon vào Nhà Trắng
phải đối mặt với một loạt “các hỗn độn
xuất hiện để đe dọa đến hình ảnh nước Mỹ”, một mặt sự gia tăng chỉ trích
trong nước về cuộc chiến tranh mà nước này đang tiến hành tại Việt Nam, và cuộc
chiến này cũng kéo hình ảnh đối ngoại của Mỹ theo hướng giảm dần, tức sức mạnh
và vai trò trung tâm trong các vấn đề thế giới đang bị thách thức. Nhận thức
được tình hình khó khăn, chính quyền Nixon bắt đầu đánh giá lại chiến lược
ngoại giao khi thế giới những năm 60 đang chuyển dần từ hai cực sang đa cực.
Học thuyết Guam mà Nixon công bố tháng 7-1969 như là một giải pháp lấy lại hình
ảnh nước Mỹ, trước hết thông qua một loạt các cam kết giảm căng thẳng tại Châu
Á, trong đó Mỹ đang tiến hành làm dịu quan hệ với Trung Quốc, điều này được
các nhà bình luận khẳng định “không nghi
ngờ gì, Washington đã quyết định lợi dụng cuộc xung đột Trung - Xô với thái độ
kiên quyết hơn” [15;116]. Đây là sự chuyển biến trong chính sách ngoại
giao của Mỹ sau các thỏa thuận với Matxcơva không thành công trong một số vấn
đề quốc tế như thuyết phục Liên Xô xem xét lại sự hỗ trợ cho Bắc Việt Nam, kiềm
chế Trung Quốc khi nước này đạt đến sự tiến bộ bất ngờ về công nghệ hạt nhân
và tên lửa những năm 60, đưa Trung Quốc chính thức gia nhập “câu lạc bộ hạt nhân” và trở thành
cường quốc quân sự có thể cạnh tranh trực tiếp với Mỹ và Liên Xô. Trong giai
đoạn chống cả hai siêu cường (1959 - 1969) Bắc Kinh đã từng tuyên bố sẽ sử
dụng vũ khí hạt nhân nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công bất ngờ từ phía Mỹ
hoặc Liên Xô. Trong báo cáo chính trị đã được thông qua ở Đại hội IX,
Mao Trạch Đông đã từng tuyên bố: “chúng
ta không được lơ là cảnh giác, không được coi thường sự nguy hiểm của
cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ, bè lũ xét lại Liên Xô phát động.
Chúng ta cần phải chuẩn bị chu đáo, chuẩn bị đánh lớn với chúng,
chuẩn bị đánh sớm với chúng, chuẩn bị đánh chính huy với chúng,
cũng chuẩn bị chiến tranh hạt nhân với chúng. Nói tóm lại, chúng ta
phải có chuẩn bị” [9;71]. Phải thừa nhận Trung Quốc tại thời điểm đó
dân số và địa lí rộng lớn nhưng về mặt kinh tế, quân sự chỉ trung bình nhưng sự
tích lũy hạt nhân của nước này đang gia tăng tại Châu Á thậm chí có thể thực
thi quyền lực lớn hơn trong cộng đồng quốc tế - theo nhận định của Washington. Mỹ
cho rằng họ đang đối đầu với hai đối thủ lớn tại Châu Á, Liên Xô cũng nhận thức
được sự tiến bộ hạt nhân của Trung Quốc nên trong cuộc xung đột biên giới nước
này đã từng triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo (ABM) dọc biên giới
với nước láng giềng vốn trước đây chỉ nhằm vào Mỹ. Cho thấy cả Xô, Mỹ đều
quan tâm đến Trung Quốc. Dù vậy, theo nhận định của Mỹ: “Matxcơva sẽ không giúp Nixon thoát khỏi cuộc chiến ở Việt Nam .
Và đột nhiên, bằng chứng đã cho thấy rằng Matxcơva có lẽ sẽ tiếp
tục các kế hoạch tấn công Trung Quốc mà chẳng cần quan tâm tới sự tham
gia hay đồng ý của Washington” [15;117], quan ngại nếu Liên Xô thành công
trong việc lật đổ Mao chắc chắn quyền lực của điện Kremlin sẽ gia tăng tại khu
vực Châu Á, chính quyền Nixon cũng tính tới trường hợp liệu Liên Xô có tấn công
Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân không, điều này được thể hiện qua các cuộc tiếp
xúc với Matxcơva, Washington luôn cố gắng xác nhận thông tin này. Rõ ràng Mỹ
đang lo ngại quyền lợi toàn cầu của họ sẽ bị ảnh hưởng hơn là sự an ninh của
Trung Quốc cộng sản khi nước này bị tấn công.
Thực tế, lãnh đạo Liên Xô
đã bàn tính nhiều đến khả năng tấn công Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân “nếu muốn trừng trị họ (Trung Quốc) mà lại
tránh cho chúng ta phải tổn thất quá nặng nề thì hãy nên để cho bom nguyên tử
của chúng ta tỏ rõ uy lực, muốn loại trừ tận gốc mối đe dọa từ phía Trung Quốc
thì phải sự dụng vũ khí hạt nhân giáng một đoàn tiêu diệt vào các cơ sở hạt
nhân của Trung Quốc, chỉ có dùng “phẫu thuật ngoại khoa”như vậy mới có thể loại
bỏ được cái u ác tính của Châu Á” [8;578]. Chính quyền Bắc Kinh cũng nhận
thấy lực lượng quân đội đang gia tăng dọc biên giới, một cuộc chiến tranh đang
đến gần, nhưng họ cũng có cơ sở để giảm bớt mối quan ngại đó, dựa trên quan
điểm mặc dù Xô - Mỹ có những thỏa thuận chung sống hòa bình, nhưng Mỹ vẫn
luôn xem Liên Xô là đối thủ chủ yếu và Trung Quốc cũng chung quan điểm này, do
vậy “Liên Xô không dám tạo ra một cuộc
chiến tranh trên cả hai mặt trận với Mỹ và Trung Quốc”. Liên Xô cũng
đã hiểu rằng, các vị Nguyên Soái nói, rằng “Mỹ sẽ chỉ có lợi từ
một cuộc chiến tranh như vậy. Nixon sẽ chỉ cảm thấy hạnh phúc khi ở
thế “tọa sơn quan hổ đấu”. Trung
Quốc đã nắm được cốt lõi của vấn đề trong giải quyết mâu thuẫn với Liên Xô trên
cơ sở không nhượng bộ “những kẻ xét lại,
Liên Xô có xâm chiếm Trung Quốc hay không còn phụ thuộc rất lớn vào thái độ của
Mỹ. Cho tới nay, Mỹ vẫn không cho phép Liên Xô cảm thấy thoải mái và trên
thực tế là mối quan ngại lớn nhất đối với Liên Xô” “và chủ nghĩa đến quốc Mỹ hoàn toàn không muốn nhìn thấy Liên Xô giành
thắng lợi trên bất cứ cuộc xung đột Trung - Xô nào và do đó thành lập một siêu
nhà nước có ngồn tài nguyên và sức mạnh con người vượt Mỹ” [15;131]. Những
quan điểm này được thể hiện trong báo cáo phân tích mối quan hệ giữa Trung
Quốc, Liên Xô và Mỹ, bản báo cáo cũng chỉ ra rằng lợi ích chiến lược của
Trung Quốc muốn đạt được trong giai đoạn này cần thiết phải lợi dụng sự căng
thẳng giữa Liên Xô và Mỹ để tăng vị thế theo hướng có lợi nhất. Đây là một
trong những nguyên nhân Bắc Kinh đồng ý nối lại đàm phán tại Warsaw
với Washington
tháng 9-1969. Điều này cũng cho thấy Bắc Kinh đang chủ động sử dụng Mỹ như
con bài trong cuộc đối đầu với Liên Xô.
Nhận định xung đột Trung -
Xô đóng vai trò quan trọng trong định hình quan hệ Trung - Mỹ cuối thập niên
60 đầu thập niên 70 là hoàn toàn có cơ sở. Marshall Green - đại sứ Mỹ tại
Indonesia năm 1967 trong cuộc tiếp xúc với Nixon từng phát biểu “nếu Mỹ muốn chống lại sức mạnh của Liên Xô
cần thiết phải sử dụng Trung Quốc”, “con
đường tới Matxcova nằm xuyên qua Bắc Kinh” [50;101]. Đến đầu năm 1969,
Kissinger đã viết về khả năng rạn nứt Trung - Xô khi cho rằng “không thể bỏ qua” nếu nó xảy ra Mỹ nên
tận dụng lợi thế của nó. Washington
đã chuyển hướng từ việc chỉ chú tâm trong cuộc chiến tại Đông Dương sang Trung
Quốc vì trong nhận thức điều “tồi tệ” nhất sẽ xảy ra với Mỹ nếu Liên Xô
“chiếm” được Trung Quốc. Washington dựa trên nhận định các nhà lãnh đạo Liên Xô
muốn tìm cách để kiềm chế Trung Quốc trực tiếp, bên cạnh đó còn tìm kiếm quan
hệ gần gũi với các nước trong khu vực nhằm ngăn cản nước này có cơ hội “tiếp
xúc” với đối thủ của Kremlin. Chính sự nghi ngờ này là cơ hội cho Nhà Trắng
thông qua chiến lược ngoại giao tam giác, như việc tìm cách tiếp cận Trung
Quốc, Mỹ sẽ buộc Liên Xô nhìn nhận lại cuộc chiến đang diễn ra với tư cách là
đồng minh viện trợ chính.
Trở lại tư tưởng chung
sống hòa bình của Khrushev với tất cả các nước tư bản từ thập niên 50 đã làm
Bắc Kinh hụt hẫng và nghi ngờ, khi trong gian đoạn này Trung Quốc vẫn xem Mỹ
là kẻ thù, vì thế nếu muốn sử dụng Trung Quốc cho chiến lược ngoại giao thì
điều đầu tiên Mỹ phải xóa bỏ đi quan điểm Xô - Mỹ đang cấu kết chống lại
Trung Quốc “chúng ta (Mỹ) cần phải làm
rõ để người Trung Quốc thấy chúng ta không thông đồng với Liên Xô”. Những
động thái ngoại giao thời Nixon cho thấy Mỹ sẵn sàng tìm bất kì cách nào, bất
kì cơ hội nào có thể bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Trung Quốc ý thức
được là nước yếu kém trong các cuộc xung đột với Liên Xô, khoảng thời gian 1966
- 1967 nước này bắt đầu thay đổi chiến lược ngoại giao linh hoạt hơn, đàm phán
với Mỹ là biện pháp để gây ra sự mất cân bằng cho Liên Xô bằng cách khuyến
khích sự căng thẳng Xô - Mỹ. Từ quan điểm này Washington kết luận mối đe dọa bởi Liên Xô
sẽ nhắc nhở Trung Quốc cần dành vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại với Mỹ.
Tóm lại nếu Washington có thể khôi phục lại quan hệ và liên kết với Bắc Kinh
thì Mỹ có thể sử dụng Trung Quốc là nhân tố trong chính sách ngoại giao nhằm
tạo ra sự đối trọng để kiềm chế tham vọng của Matxcơva, đẩy Liên Xô đi đến giảm
căng thẳng và chấp nhận các điều kiện theo hướng có lợi cho Nhà Trắng.
Giảm căng thẳng với Trung
Quốc có thể ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô tại Châu Á có thể tác động gây ra
sự chú ý từ đồng minh Châu Âu và bắt tay với Trung Quốc sẽ cho phép nước này
duy trì sự cân bằng toàn cầu hình thành một cơ cấu mới trong bang giao quốc tế.
Vấn đề rò rỉ thông tin Liên Xô sử dụng vũ khí hạt nhận để tấn công Trung Quốc, Mỹ
đã sử dụng tin tức thu thập này cung cấp cho Bắc Kinh như một yếu tố tạo nên
lòng tin. Trong cuộc họp nội các chính phủ, Nixon đã chỉ đạo “nên tìm cách thông báo nhanh chóng cho Trung
Quốc biết ý đồ của Liên Xô để họ chuẩn bị biện pháp đối phó cần thiết” [8;579].
Ngày 28-8 Mỹ đã tìm cách đưa thông tin mật này lên báo tạo nên một phản ứng
mạnh mẽ từ Matxcơva và sự quan tâm của thế giới về một cuộc chiến tranh hạt
nhân sẽ xảy ra, đến ngày 15-10 Kissinger đại diện Nhà Trắng đưa ra cảnh báo nếu
Mỹ sẽ không giữ thái độ trung lập trong trường hợp Liên Xô tấn công Trung Quốc
và nước này sẽ tấn công 130 thành phố của Liên Xô để trả đũa, hàm ý đã được đưa
ra “lợi ích của Trung Quốc liên quan mật
thiết đến lợi ích của Hoa Kì. Hoa Kì không thể thờ ơ ngồi nhìn hành động của
Liên Xô, một khi cuộc chiến tranh bùng nổ Hoa kì có thể cho rằng cuộc chiến
tranh thế giới thứ ba sẽ bắt đầu và Hoa Kì sẽ áp dụng hành động như vậy đối với
Liên Xô. Đoàn hạt nhân Liên Xô đối với Trung Quốc tất cả sẽ dẫn đến hành động trả
đũa từ phía Trung Quốc, sự ô nhiễm do chiến tranh hạt nhân gây ra trực tiếp sẽ
đe dọa tới an nguy của hành chục vạn quân nhân Mỹ đóng ỏ Châu Á và sẽ làm cho
sự cân bằng sinh thái trên toàn cầu bị phá hoại, đó là điều Hoa Kì không thể
tha thứ” [8;580]. Thông điệp này được nhằm vào Bắc Kinh, dựa trên thông
điệp này nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Mỹ đã giúp Trung Quốc thoát khỏi cuộc
tấn công hạt nhân từ phía Liên Xô vì 5 ngày sau đó Matxcơva đã hủy bỏ kế hoạch
tấn công Trung Quốc, trở lại đàm phán với nước này. Nhưng Trung Quốc vẫn thận
trọng “lòng tốt” từ Mỹ vì hiểu Washington có thái độ
cứng rắn với Matxcơva vì đang muốn trả đũa việc điện Kremlin đã từ chối hợp tác
với nước này trong việc ngăn chặn Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân từ năm
1964. Vì vậy, Trung Quốc vừa có bước chuẩn bị đối phó Liên Xô vừa kiểm tra độ
chính xác thông tin.
Có 3 sự lựa chọn để Trung
Quốc thoát khỏi mối đe dọa từ Liên Xô:
- Thứ nhất: nước này sẽ chấp nhận
những quan điểm, tư tưởng mà Matxcơva đưa ra.
- Thứ hai: xây dựng một nước Trung
Quốc tự chủ hùng mạnh đủ sức đối phó các cuộc tấn công từ đối phương.
- Thứ ba: liên kết với một lực
lượng thứ ba.
Hai lựa chọn đầu tiên là không
thể một nước Trung Quốc vừa mới dành được độc lập và Đất nước chưa
thoát khỏi khó khăn do “Đại nhảy vọt”
và “Cách mạng Văn hóa” đem lại.
Vì vậy, phương án thứ ba dường như là lựa chọn cuối cùng của Trung
Quốc trong bối cảnh đó. Điều này phù hợp với tư tưởng cân bằng mối đe dọa
trong lí thuyết quan hệ quốc tế mà nước này và nhiều nước đương thời áp dụng,
theo đó khi quyền lợi quốc gia đang bị đe dọa một nước sẽ thiết lập quan hệ với
một nước hay một nhóm nước đối nghịch để tạo nên sự đối trọng từ một nước hay
một nhóm nước đang đe dọa.
Trung Quốc lựa chọn Mỹ là
một đối tác liên minh hơn là tư cách một quốc gia, khi hai nước này có quyền
lợi cần bảo đảm an ninh cho sự phát triển. Trung Quốc thừa biết Mỹ hợp tác với
họ để tạo nên một liên minh chống Liên Xô và có cơ hội thậm nhập vào nền kinh
tế đầy tiềm năng này. Bằng sự tính toán Trung Quốc đã đạt được những gì họ mong
muốn nhưng không phải có những nhượng bộ đáng kể ảnh hưởng đến quyền lợi quốc
gia.
Như vậy, sự xích lại gần
nhau trong quan hệ Mỹ - Trung là một trong những kết quả xung đột Trung - Xô kéo
dài từ thập niên 50, 60 góp phần hình thành nên tam giác ngoại giao ba bên - sự
điều khiển chính sách có toan tính trong quan hệ song phương và ba bên giữa Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc. Đánh
dấu việc Mỹ xem xét lại chính sách toàn vẹn với Trung Quốc, thông cáo 1972 -
kết quả thành công trong chính sách ngoại giao ba bên, trước hết đối với Mỹ đã
biết cách khai thác tinh tế làm sao cho hai nước vốn trước đây là đồng minh
không trở lại với nhau ban đầu. Sự tinh tế này được thể hiện:
- Thứ nhất, Mỹ sẽ kìm nén ý muốn nhằm thúc đẩy các vấn đề có thể làm
ngăn cách sâu sắc thêm quan hệ Trung - Xô mà chỉ dựa trên những động thái của
sự kiện vốn nảy sinh tất yếu từ hai nước XHCN này.
- Thứ hai, không để cho Trung, Xô
nhận ra Mỹ sẽ nghiêng hẳn về bên nào. Nếu làm tốt những điều trên sẽ có lợi
cho lợi ích nước Mỹ, lịch sử đã chứng minh điều này. Mỹ là nước chủ động tiếp
xúc với Trung Quốc, và điều quan trọng phía Trung Quốc cũng có những động thái
tương tự.
2.3.2.
Yếu tố Việt Nam
Một đặc điểm lớn của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam là cả ba nước lớn
Liên Xô - Trung Quốc - Mỹ đều trực tiếp dính líu và đều có vai trò quan
trọng trong cuộc chiến, khác nhiều so với các cuộc chiến tranh thời
cận, hiện đại như: chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Trung Đông…
Đông Dương, không phải là trọng điểm chiến lược của Mỹ. Mỹ
xâm lược Việt Nam không phải vì mục tiêu kiểu thực dân cũ - chiếm một khu vực
địa lý nhất định để khai thác, mà vì chiến lược toàn cầu của Mỹ là ngăn chặn chủ
nghĩa cộng sản tràn xuống Đông Nam Á
và đánh phủ đầu phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Mỹ lao vào chiến
tranh Việt Nam trong một thế quốc tế và quốc nội rất không thuận nên họ rất coi
trọng hoạt động ngoại giao. Trong đó, các mũi ngoại giao quan trọng nhất mà Mỹ
nhằm vào là Liên Xô và Trung Quốc, hai địch thủ lớn nhất của Mỹ, hai đồng minh
chủ yếu của Việt Nam [15;95].
Đối với Mỹ, nhiệm vụ của ngoại giao với hai nước này là kiềm
chế, giữ chân hai nước để hai nước không trực tiếp can thiệp vào chiến tranh,
tác động để hai nước giảm giúp Việt Nam, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai nước để
làm suy yếu hậu phương quốc tế của Việt Nam và khi cần thì vận dụng vai trò của
hai nước trong việc thực hiện các ý đồ của Mỹ. Với Nixon, một câu hỏi
lớn là làm thế nào để những vết rạn nứt bạo lực trong xung đột Trung
- Xô này sẽ có tác dụng gì ở Việt Nam. Chẳng có gì lo lắng hơn là
tìm ra một giải pháp chiến lược để thoát khỏi khu vực Đông Nam Á.
Sẽ chẳng có nhiệm kỳ thứ hai nếu như Nixon không kết thúc cuộc chiến
tranh Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc
cũng mâu thuẫn với nhau khá nhiều. Vấn đề khá phức tạp và tế nhị, Cả hai nước
đều là đồng minh chiến lược tin cậy của Việt Nam, đều ủng hộ và giúp đỡ Việt
Nam to lớn và đều mong muốn Việt Nam thắng Mỹ. Thậm chí có mặt hai nước “phối
hợp nhau” giúp Việt Nam, như việc Trung Quốc vận chuyển hàng viện trợ của Liên
Xô quá cảnh Trung Quốc sang Việt Nam. Mâu thuẫn giữa hai nước trong vấn đề Việt
Nam bắt nguồn từ việc hai nước có những tính toán khác nhau trong vấn đề giúp
Việt Nam.
Chiến lược của Liên Xô lúc này là giữ gìn hoà bình, tạo môi
trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH, tạo hoà hoãn Đông - Tây,
đặc biệt là hoà hoãn với Mỹ. Liên Xô đặt cao nhiệm vụ giúp Việt Nam đánh Mỹ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam phù hợp với chiến lược của Liên Xô, kiềm
chế Mỹ, góp phần làm cho Mỹ suy yếu, tạo điều kiện để Liên Xô vươn lên cân bằng
với Mỹ về chiến lược. Liên Xô giúp Việt Nam vì lợi ích chiến lược đồng thời
cũng là nghĩa vụ đối với một đồng minh XHCN thân cận. Giúp Việt Nam, vị thế của
Liên Xô trong phong trào cách mạng thế giới càng được nâng cao và cũng để bác
bỏ mưu toan của Trung Quốc dùng vấn đề giúp Việt Nam để hạ bệ Liên Xô. Về lâu
dài, Liên Xô xây dựng quan hệ gắn bó với Việt Nam, lấy Việt Nam làm bàn đạp
phát triển quan hệ với Đông Nam Á.
Chiến
tranh Việt Nam liên quan trực tiếp với Trung Quốc. Mỹ là kẻ thù của Trung Quốc.
Quan hệ giữa hai nước căng thẳng từ chiến tranh Triều Tiên. Mỹ xâm lược Việt
Nam, đưa chiến tranh sát biên giới Trung Quốc, uy hiếp an ninh Trung Quốc từ
phía Nam. Việt Nam là đồng minh thân thiết của Trung Quốc từ ngày cách mạng
Trung Quốc thành công. Trung Quốc giúp Việt Nam vừa là nghĩa vụ đối với đồng
minh vừa vì lợi ích chiến lược, kiềm chế ngăn chặn Mỹ, làm cho Mỹ suy yếu, bảo
đảm an ninh của Trung Quốc. Trung Quốc cũng muốn nổi trội trong sự nghiệp giúp
Việt Nam, muốn Việt Nam đánh Mỹ lâu dài, cho đến lúc Mỹ thật sự suy yếu và
Trung Quốc có thể có vai trò như đã từng có ở Hội nghị Giơnevơ năm 1954. Khi
giúp Việt Nam, Trung Quốc cũng tính đến vị thế của mình trong phong trào cách
mạng thế giới, đồng thời cũng muốn phá ý đồ của Liên Xô độc quyền nắm ngọn cờ
giúp Việt Nam.
Do
những tính toán khác nhau như vậy, nên trong vấn đề giúp Việt Nam, hai nước lớn
đồng minh của Việt Nam có những chủ trương và việc làm có tính chất chống nhau:
- Thứ nhất: Về vấn đề thống nhất
hành động của các nước XHCN:
Việt
Nam kháng chiến chống Mỹ, mong muốn các nước XHCN anh em, trước hết là ba nước
Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, có những biểu thị về tinh thần và trên thực tế
để tạo thế mạnh cho Việt Nam và áp đảo thái độ hung hăng của Mỹ.
Ngày
5-2-1965, trên đường sang Việt Nam, Thủ tướng Liên Xô Kosygin ghé qua Trung
Quốc, gợi ý các nước XHCN ra chung văn kiện kêu gọi họp một hội nghị quốc tế
kiểu Giơnevơ về Việt Nam.
Ngày
22-2-1965, Việt Nam trao cho Liên Xô, Trung Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân
Triều Tiên dự thảo tuyên bố chung của các nước XHCN, lên án Mỹ tăng cường, mở
rộng chiến tranh Việt Nam. Liên Xô tán thành, còn Trung Quốc thì không đồng ý
(28-2) . Tháng 3-1965, Liên Xô lại đề nghị họp ba đảng Liên Xô, Trung Quốc,
Việt Nam để bàn phối hợp hành động . . . nhưng không được Trung Quốc chấp
thuận.
Trong nhiều cuộc hội đàm giữa các nhà lãnh đạo
Việt Nam với lãnh đạo Trung Quốc, phía bạn thường nói thẳng không tán thành
hành động thống nhất. Tại cuộc hội đàm tại Hà Nội ngày 7-3-1971,Thủ tướng Chu
Ân Lai nói: “Nếu lập mặt trận chống Mỹ
rộng rãi trên thế giới và đưa Liên Xô vào thì chúng ta sẽ bị xỏ mũi”.
- Thứ hai:Trong vấn đề viện trợ cho
Việt Nam:
Cả
Liên Xô và Trung Quốc đều hết lòng, nhưng hai nước cũng có nhiều xung khắc.
Phía Trung Quốc thường lên án viện trợ của Liên Xô, cho rằng “Liên Xô dùng viện trợ để phục vụ chính sách
của họ”. Trong một cuộc hội đàm, phía Trung Quốc bài xích viện trợ của Liên
Xô và khuyên Việt Nam không nhận viện trợ của Liên Xô, chỉ nhận viện trợ của
Trung Quốc.
Trong
việc vận chuyển viện trợ của Liên Xô quá cảnh qua Trung Quốc Việt Nam cũng gặp
nhiều khó khăn, nhất là mỗi khi Liên Xô có ý định thay đổi mặt hàng, khối
lượng, biện pháp vận chuyển. Tháng 4-1967, khi Liên Xô muốn tăng mức hàng viện
trợ quá cảnh Trung Quốc từ 1 vạn lên 3 vạn tấn/tháng, Việt Nam phải đứng ra dàn xếp
mới được. Cũng vậy hai tháng sau, Liên Xô muốn thoả thuận vận chuyển 24 máy bay
MIG từ đường sắt qua đường không, phía Trung Quốc cũng không chấp nhận, dù phía
Việt Nam đã đứng ra làm trung gian dàn xếp.
- Thứ ba: Trong vấn đề Việt Nam ngồi
đàm phán với Mỹ
Ý kiến của Liên Trung - Xô Quốc cũng
khác nhau và sự gợi ý, gây sức ép của họ cũng theo hướng khác nhau. Với chính
sách hoà hoãn với Mỹ, từ sớm Liên Xô đã sẵn sàng làm trung gian, tạo cơ hội cho
các cuộc tiếp xúc Mỹ -Việt Nam (như vụ May Flower tháng 5-1965). Liên Xô hoan nghênh chủ trương và tuyên bố
của Việt Nam (28-l-1967) đòi Mỹ chấm dứt ném bom để nói chuyện. Mỹ - Xô cũng
nhiều lần trực tiếp bàn vấn đề hoà bình ở Việt Nam nhưng Liên Xô không đi xa
lập trường của Việt Nam.
Trái
lại, Trung Quốc một thời gian dài phản đối, tìm cách ngăn chặn cục diện đánh -
đàm. Tháng 7-1965, trong hội đàm cấp cao ở Bắc Kinh. phía Trung Quốc cho rằng:
xét lại Liên Xô muốn miền Bắc đàm phán với Mỹ, gạt Mặt trận dân tộc giải phóng,
bán rẽ anh em? Sau khi Việt Nam có tuyên bố 3-4-1968 mở cuộc tiếp xúc với Mỹ,
thì Trung Quốc không tán thành và cho rằng như thế là vội vàng quá, chưa phải
thời cơ. phải giữ cao giọng. . . Đến khi Việt Nam sắp thoả thuận với Mỹ về việc
Mỹ chấm dứt ném bom và họp hội nghị 4 bên, phía Trung Quốc càng phản đối quyết
liệt đến mức nêu vấn đề quan hệ và vấn đề viện trợ để “nhắc nhở” ta. Việt Nam phải trải qua những
chặng đường rất gian truân.
Như
vậy, cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành một trong những tác nhân
tạo nên tam giác ngoại giao Trung - Xô - Mỹ, những tư tưởng lớn gặp nhau trên cùng một con đường. Về
phân mình, cuộc chiến tranh Việt Nam đã phần nào ảnh hưởng đến chính
sách ngoại giao của cả Liên Xô và Trung Quốc, tác động không nhỏ đến
quan hệ Trung - Xô trong giai đoạn này. Và đây cũng là một trong những
điểm yếu trong quan hệ giữa hai nước mà Mỹ đã lợi dụng để tìm cách
khoét sâu vào mâu thuẫn giữa hai nước kích động hai nước có những
động thái cứng rắn hơn cho vấn đề hòa bình ở Việt Nam, có lợi cho
Mỹ.
2.3.3. Tư tưởng nước lớn của cả Trung Quốc và Liên Xô
Cũng
như mối quan hệ Trung - Việt, mối quan hệ Trung - Xô có thời kỳ trăng mật, rồi
lúc nóng, lúc lạnh và kết cục là dẫn đến chiến tranh biên giới - dù các cuộc
chiến ấy hạn chế về không gian và thời gian.
Sau những
mối quan hệ tốt đẹp trong những năm (1949 - 1956), đến giai đoạn này
quan hệ giữa hai nước đã bất đầu bột lộ những bất đồng kín đáo
xoay quanh các vấn đề lý luận. Đến giữa những năm 1950, giới lãnh
đạo Bắc Kinh bắt đầu có con đường đi riêng, họ chưa bao giờ quên Trung
Quốc là một nước lớn trên thế giới. Họ
đã cố chọn cho mình một chỗ đứng riêng trên trường quốc tế,
bằng cách hướng về các nước kém phát triển. Bất chấp phản ứng khá
lạnh nhạt của Stalin, họ không bỏ lỡ một cơ hội thuận tiện nào để
khẳng định rằng con đường đấu tranh và kinh nghiệm của phong trào
cách mạng Trung Quốc là phù hợp với hoàn cảnh thực tiển của đất
nước này. Dịp đầu tiên cho thế thấy sự lựa chọn vừa kể là: Hội
nghị các nước Á - Phi họp ở
Bandung năm 1955. Tại đây, thủ tướng Chu Ân Lai đã đóng vai trò hàng
đầu, địa vị và tiềm năng ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới
được mọi người nhìn nhận bằng một con mắt hoàn toàn mới.
Việc liên
minh với Liên Xô đã ràng buộc Trung Quốc vào sự lệ thuộc Liên Xô không dễ
dàng chút nào, vì xuất phát từ nhu cầu cấp thiết và trong điều kiện thiếu tin
tưởng lẫn, liên minh này tuy đưa đến cho Mao Trạch Đông một hiệp ước an ninh
chống lại sự tiến công của Mỹ, nhưng bù lại Mao Trạch Đông phải công nhận nền
độc lập của Mông Cổ và phải nhượng bộ một loạt các đặc quyền cho Liên Xô ở Mãn
Châu và Tân Cương hơn cả thời kì Sa Hoàng. Theo nhận xét này, để có hiệp ước
bảo trợ về an ninh, viện trợ phát triển đất nước từ Liên Xô thì chính quyền Bắc
Kinh phải đổi lấy bởi một phần quyền lợi quốc gia và khi chủ nghĩa dân tộc trỗi
dậy, đã trở thành nguyên nhân chính dẫn đến quan hệ Trung - Xô bước vào thời kì
hai mươi năm đầy sóng gió (1959 - 1979), nó
trở thành cơ hội cho chiến lược ngoại giao toàn cầu của một số nước - điển hình
là Mỹ.
Tất
nhiên, hệ quả các cuộc chiến tranh biên giới là khác nhau, song chúng ta thấy, Trung Quốc luôn có những tính toán và hành động
làm các nước láng giềng bất ngờ. Đặc điểm nổi bật của họ là lời nói và việc làm
khác nhau. Đứng trước nguy cơ chiến tranh với cả hai thế lực mạnh nhất
thế giới lúc bấy giờ, giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn lạc quan đưa ra
nhận định rằng: “Trong tương lai gần,
các cơ hội mà chủ nghĩa đế quốc
Mỹ và chủ nghĩa xét lại Liên Xô sẽ triển khai riêng lẻ hoặc cùng
nhau một cuộc tấn công quy mô lớn vào Trung Quốc là không nhiều”. Họ
thừa nhận rằng giờ đây Liên Xô đang tăng cường vũ trang cho các cuộc
xâm chiếm, thành lập những Sư đoàn điểm chống Trung Quốc trong dân
chúng Liên Xô và gây áp lực lên các quốc gia Châu Á gia nhập khối Liên
minh an ninh chống lại Trung Quốc. Nhưng, họ vẫn xác nhận rằng “nếu chủ nghĩa xét lại Liên Xô tổ
chức một cuộc tấn công lớn chống Trung Quốc, họ sẽ phải đối mặt
với hàng loạt mối lo ngại và khó khăn” [15;130].
Vì
cả Trung Quốc và Mỹ đều coi Liên Xô là một kẻ thù chủ yếu của họ,
“Liên Xô không dám tạo ra một cuộc chiến tranh trên cả hai mặt trận
với Mỹ và Trung Quốc”. Liên Xô cũng đã hiểu, các vị nguyên soán nói,
rằng Mỹ sẽ chỉ có lợi từ một cuộc chiến như vậy. Nixon sẽ cảm
thấy hạnh phúc khi ở “thế tọa sơn quan hổ đấu”.
“Những kẻ xét lại Liên Xô có xâm chiếm Trung
Quốc hay không còn phụ thuộc rất lớn vào thái độ của Mỹ. Cho tới
nay, Mỹ vẫn không cho phép Liên Xô cảm thấy thoải mái và trên thực
tế, là mối quan ngại chiến lược lớn nhất đối với Liên Xô” [15;131]. Lợi ích chiến lược của Trung
Quốc nằm ở việc “lợi dụng sự căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô để gia
tăng sức mạnh cho vị thế của chúng ta”.
Với
một triệu binh lính Liên Xô ở gần những họng súng đang sẵn sàng nhả
đạn dọc biên giới Trung - Xô, Mao Trạch Đông cho nổ thử bom Hiđro ở khu
vực sa mạc miền Tây Trung Quốc, một quả bom có sức công phá 3 triệu
tấn được ném từ chiếc máy bay ném bom bốn động cơ của Trung Quốc,
làm vỡ tung bầu không khí trên khắp vùng sa mạc. Màn trình diễn sức
mạnh này của Trung Quốc gây chấn động lớn. Hai cuộc thử nghiệm được
tiến hành trong vòng sáu ngày. Trung Quốc không bao giờ bố trí hai
cuộc thử nghiệm hạt nhân một cách liên tục và hành động của Mao
Trạch Đông mang theo thông điệp chính trị rõ ràng đối với các sư đoàn
của Liên Xô tập trung ở khu vực biên giới. Mao Trạch Đông đang sẵn sàng
sử dụng vụ khí tối thượng của mình để chống lại bất cứ kẻ xâm
lược nào. Ông đang thực hành nghệ thuật chiến tranh [15;132,133].
Ngay
khi Liên Xô đe dọa tấn công các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc, Mao
Trạch Đông mới nhắc nhở thế giới rằng Trung Quốc không chỉ là một
cường quốc hạt nhân mà họ đã phát triển đầu đạn nhiệt hạch có sức
công phá lớn rất nhiều lần quả bom ở Hirôshima và có khả năng xóa
sạch tất cả các thành phố.
Trước
các tín hiệu phát ra từ phía Mỹ Trung Quốc đã lên tiếng cảnh báo
trước, Chu Ân Lai nói: “Trung Quốc
không nên được phát họa như một kẻ vì sự yếu thế hoặc sợ hãi Liên
Xô mà tiếp cận Mỹ; nếu điều đó xảy ra, thì bình thường hóa quan hệ
hai nước sẽ chẳng thể tiếp tục. Chu Ân Lai cũng trao đổi với Nixon
rằng viễn cảnh dần cải thiện các mối quan hệ là thuận lợi, vì
“khả năng mở rộng cuộc chiến tranh Việt Nam đang được giảm dần” và
“một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ giờ đây đã là một khả
năng rất xa vời” [15;139].
Xung đột biên giới Trung - Xô là một trong những yếu tố
quan trọng dẫn đến sự ra đời của thông cáo Thượng Hải năm 1972, tất yếu đường
lối ngoại giao của Matxcơva sẽ bị ảnh hưởng theo hướng buộc phải đều chỉnh để
hạn chế sự cô lập, đối đầu tác động đến lợi ích an ninh quốc gia.
Khi mối quan hệ Trung - Xô đang đứng bên bờ
vực của một cuộc chiến tranh toàn diện mà không còn cơ hội hòa giải nào, Matxcơva
đã trở nên nhạy cảm với các động thái ngoại giao từ Bắc Kinh đặc biệt là chính
sách thân thiện với Washington. Trong nhận thức của Liên Xô, khi Trung Quốc còn
ở vị trí thấp trong quan hệ quốc tế mà không có đồng minh hay một ủng hộ viên
nào thì căng thẳng giữa hai nước nên là vấn đề “thuần túy”, nếu lực lượng thứ ba can thiệp vào, tình thế chắc chấn
sẽ phức tạp hơn đồng nghĩa vị trí, vai trò của Liên Xô sẽ bị ảnh hưởng trên
trường quốc tế. Kể từ khi Washington - đối thủ chính của Matxcơva tồn tại ý
định sử dụng xung đột Xô - Trung như một biện pháp gia tăng đồng minh, sức ép thì mọi
chính sách ngoại giao của Liên Xô điều nhằm mục đích ngăn ngừa nguy cơ này.
Do vậy, khi những động thái cải
thiện ngoại giao giữa Mỹ và Trung Quốc biểu hiện, Liên Xô bắt đầu tiến hành
xác định tính xác thực của các tin tức tình báo xung quanh vấn đề này và tất
yếu Matxcơva không thể xem nhẹ sự chuyển hướng bất ngờ trong quan hệ Mỹ -
Trung. Ngày 20-10-1969 đại sứ Liên Xô tại Mỹ - Dobrynin đã đưa ra thông điệp
mạnh mẽ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đầy hàm ý về chính sách của Washington đối
với Bắc Kinh: nếu “một ai đó” ở Mỹ cố tình lợi dụng xung đột Trung - Xô mà
không quan tâm đến thái độ của Liên Xô, và chỉ cần một hành động gây bất lợi
cho Liên Xô, chúng tôi sẽ thể hiện sự cảnh báo thẳng thừng, nếu vẫn cứ phớt lờ
cảnh báo thì có thể dẫn đến “một sai lầm
rất nghiêm trọng”. Giải thích cho sự phản ứng gay gắt này Đại sứ Liên Xô
cho rằng mục đích mong muốn quan hệ giữa hai nước càng càng tốt đẹp hơn, đừng
vì những lợi ích trước mắt mà gây ảnh hưởng lâu dài trong quan hệ hai bên.
Chiến lược ngoại giao của Liên Xô được đẩy mạnh nhằm đưa quan hệ giữa nước này
với các nước đối trọng vào trạng thái cân bằng nhất có thể.
Từ sau đỉnh điểm cuộc xung đột biên giới năm 1969 và đến
thông cáo Thượng Hải được thông qua, quan hệ Trung - Xô không được cải thiện,
thái độ và cách nhìn nhận các vấn đề trong quan hệ quốc tế giữa hai nước hoàn
toàn khác nhau. Mười năm (1969 – 1979) tiếp tục là các cuộc đối đầu về quân sự,
bao vây ngoại giao, mâu thuẫn về ý thức hệ, hạn chế các quan hệ kinh tế giữa Liên
Xô và Trung Quốc, ngược lại với sự phát triển của thế giới là sự thay đổi về
các quan hệ chính trị, kinh tế.
Các cuộc xung đột biên giới đưa quan
hệ đồng minh Trung - Xô đóng băng, gây ra hệ quả: Bắc Kinh tuyên bố không gia
hạn hiệp ước đồng minh tương trợ lẫn nhau với Matxcơva sau khi hết hiệu lực năm
1979 bởi vì tình hình thế giới đã thay đổi, địa vị Trung Quốc cũng thay đổi,
hiệp ước này từ lâu không còn tồn tại ngoại trừ tên gọi, phía Trung Quốc sẽ
không chịu trách nhiệm khi mà những khác biệt về nguyên tắc giữa Trung Quốc và
Liên Xô quá lớn vì thế không nên có sự ràng buộc giữa hai nước. Việc hiệp ước
“Hữu nghị, liên minh, tương trợ Xô - Trung” được xem xét lại cho thấy mối quan
hệ giữa hai nước trở nên khó hòa giải, Trung Quốc cho rằng khi kí hiệp ước 1950
là sự không công bằng với họ với cái giá phải trả quá đắt để đổi lấy sự hỗ trợ
về kinh tế, quân sự, khoa học kĩ thuật bởi Liên Xô vì qua đó Matxcơva được tăng
cường vị thế ở Châu Á, có thể sử dụng hiệp ước nhằm ngăn chặn tham vọng chính
trị, đối kháng nảy sinh giữa hai đồng minh sau này “Hiệp ước Trung - Xô 1950 vẫn là một công cụ chính cho Matxcơva tìm
cách áp đặt bá quyền đối với Trung Quốc”; ủng hộ việc duy trì ở Châu Á -
Thái Bình Dương hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật; tán thành sự có mặt của Mỹ ở Đông
Nam Á; đặt quan hệ với NATO [13;37]. Tương tự như vậy Mỹ cũng tăng cường chạy
đua vũ trang; can thiệp vào Việt Nam như một sự răn đe sự bành trướng của Liên
Xô tại Châu Á.
Học thuyết “Ba thế giới” được đưa ra vào tháng 8-1973 tại Đại hội X Đảng cộng
sản Trung Quốc, theo đó, hai siêu cường Mỹ, Liên Xô thuộc thế giới thứ nhất -
là những kẻ thù địch chính trên quy mô thế giới; các nước đế quốc phương Tây và
Nhật Bản thuộc thế giới thứ hai - là một phần của mặt trận thống nhất quốc tế
chống lại các siêu cường; “đông đảo các
nước phát triển, tuyệt đại đa số các nước này trước kia là nước phụ thuộc của
chủ nghĩa đế quốc. họ bị chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc áp bức và bóc
lột lâu dài. Tuy họ đã giành được độc lập về chính trị, nhưng điều đang đứng
trước nhiệm vụ lịch sử là quét sạch tàn dư của chủ nghĩa thực dân, phát triển
kinh tế dân tộc, cũng cố độc lập dân tộc. Những nước này bị áp bức nặng nề nhất,
yêu cầu chống áp bức, mưu cầu giải phóng và phát triển cũng mãnh liệt nhất. Họ
là lực lượng chính chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, nhất là những
nước tiêu hóa lớn - gọi là thế giới thứ ba” [8;616]. Với các phân chia thế
giới này Trung Quốc xem họ “thuộc thế
giới thứ ba, trong 5 nước thường trực hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, Trung
Quốc là nước thứ ba duy nhất, là người bạn và người phát ngôn kiên định của tất
cả những nước trong thế giới thứ ba” [8;617]. Chủ thuyết này xếp Liên Xô và
Mỹ cùng vào bản chất đế quốc như nhau, khi đó các nước đồng minh của Mỹ được
hạ thấp trong mối quan hệ quốc tế nhưng lại xếp các dân tộc bị áp bức ở Châu Á,
Châu Âu và Mỹ La tinh cùng một mặt trận.
Việc
triển khai chủ thuyết ba thế giới của Trung Quốc đi từ nhận thức đến một chiến
lược mang tính toàn diện. Khía cạnh quan trọng của lí thuyết Ba thế giới đã
từng được Đặng Tiểu Bình trình bày trong một báo cáo tại Liên Hiệp Quốc năm
1974, Trung Quốc tự cho họ có vai trò lãnh đạo thế giới thứ ba và coi thế giới
thứ ba là cơ sở để nâng địa vị ngang tầm với cả Liên Xô và Mỹ trên trường
chính trị thế giới vì nước này dựa trên cơ sở quyền lực mà họ đang xây dựng gồm
4 công cụ của sức mạnh quốc gia: tính linh hoạt trong ngoại giao; mức độ và tốc
độ phát triển kinh tế; sự khẳng định về văn hóa; và củng cố sức mạnh quân sự.
Đáp lại những lời tuyên truyền trong
việc chống mình từ Bắc Kinh, Matxcơva cũng có những động thái thể hiện vai trò
là một nước lớn dùng mọi biện pháp để đưa cực đang lãnh đạo vào “trật tự” “sang những năm 70 của thế kỉ XX, Liên Xô bắt
đầu thị uy sức mạnh của mình ở Đông Dương, bên cạnh đó coi thường việc Trung
Quốc chống chủ nghĩa bá quyền” [13;38]. Việc Liên Xô triển khai các hoạt
động quân sự dọc biên giới Trung Quốc đã bị Bắc Kinh lên án rằng Matxcơva đang
đe dọa trực tiếp đến an ninh nước này, gây ra tình trạng toàn bộ biên giới
Trung Quốc luôn không yên ổn. Năm 1979, Liên Xô đưa quân vào Apganixtan khi chế
độ thân Matxcơva có nguy cơ sụp đổ, chính quyền Bắc Kinh xem đây như là một
phần trong âm mưu của Liên Xô bao vây, cô lập họ “hành động của chủ nghĩa đế
quốc xã hội Xô Viết nhằm mục đích thể hiện trước Hoa Kì và Nhật Bản, đồng thời
họ cũng đang chuẩn bị vững chắc cho một cuộc chiến tranh xâm lược vào đất nước
chúng ta”, vì thế tìm kiếm liên minh với Mỹ và Pakistan là giải pháp mà Trung
Quốc lựa chọn vừa chống lại thế bị đe dọa đến an ninh quốc gia vừa làm nhiệm vụ
quốc tế “ngăn chặn các cuộc xâm lược” mở rộng chủ nghĩa bá quyền từ Liên Xô.
Như vậy, ngoài việc đưa quân vào Apganixtan tạo ảnh hưởng trực tiếp đến
Pakistan và Trung Quốc, Liên Xô còn liên minh với Ấn Độ, Mông Cổ để đẩy Trung
Quốc vào tình thế chịu sức ép dọc theo tuyến biên giới Đông và Tây Nam. Khẳng
định vai trò lãnh đạo, ảnh hưởng trong khối XHCN cũng là biện pháp mà Liên Xô áp
dụng để giải quyết mâu thuẫn với Trung Quốc, đưa nước này thoát khỏi thế liên
minh do Trung Quốc khởi xứng để chống Matxcơva. Cuộc chiến tranh tại Việt Nam
là một điển hình cho sự cạnh tranh mang tầm ý đồ chiến lược của hai nước lớn
nhất trong khối XHCN, bởi vì “cuộc kháng
chiến chống Mỹ của Việt Nam phù hợp với chiến lược của Liên Xô, kiềm chế Mỹ
góp phần làm cho Mỹ suy yếu, tạo điều kiện để Liên Xô vươn lên cân bằng với Mỹ
về chiến lược. Liên Xô giúp Việt Nam vì lợi ích chiến lược đồng thời cũng là một
đồng minh XHCN thân cận. Giúp Việt Nam, vị thế của Liên Xô trong phong trào
cách mạng thế giới càng được nâng cao và cũng để bác bỏ mưu toan của Trung Quốc
dùng vấn đề Việt Nam để hạ bệ Liên Xô ” [6;34].
Việc sử dụng chiến tranh Việt Nam trở thành một trong những giải
pháp để Liên Xô vừa tăng cường ảnh hưởng ở Đông Nam Á, vừa phá vỡ thế bao vây
từ liên minh Trung - Mỹ. Trong thời kì Mỹ còn được xem là kẻ thù, Trung Quốc
giúp Việt Nam vừa thể hiện vai trò của một đồng minh XHCN vừa ngăn chặn một
cuộc chiến tranh có thể diễn ra sát biên giới nước này, những thay đổi mạnh mẽ
trong quan hệ quốc tế đã tác động đến sự nhận thức về vị trí của cuộc chiến
tranh tại Việt Nam “đến một lúc nào đó,
họ (Trung Quốc) có thể phát huy vai trò nước lớn trong một giải pháp chính trị
cho một cuộc chiến tranh. Khi giúp Việt Nam, Trung Quốc cũng tính đến vị thế
của mình trong phòng trào cách mạng thế giới, đồng thời cũng muốn phá vỡ ý đồ
của Liên Xô nắm độc quyền ngọn cờ giúp Việt Nam” [6;34]. Thực tế, đến năm
1978 mối quan hệ Xô - Việt Nam được nâng cao hơn bằng hiệp ước Tương trợ an
ninh, Trung Quốc cho rằng hiệp ước này nhắm vào họ, lúc này mối quan hệ Trung -
Việt đã suy giảm mạnh thể hiện qua các cuộc đụng độ quân sự dọc biên giới hai
nước và cuộc chiến tại Campuchia.
Như vậy, Liên Xô không “hài lòng”
với việc Mỹ - Trung xích lại gần nhau trong những năm đầu thập niên 70, việc
cải thiện quan hệ với Mỹ trong thời gian này là cách để Matxcơva cho Bắc Kinh
thấy rằng nước này mới là chủ chốt trong quan hệ với Washington, Trung Quốc thì
chỉ được sử dụng như giải pháp tạm thời giúp Mỹ giải thoát một số khóa khăn mà
nước này gặp phải. Thực tế, từ đầu thập niên 70 giữa Liên Xô và Mỹ đã tiến
hành các cuộc đàm phán cấp cao gây cho Trung Quốc sự phàn nàn Mỹ đang “đứng
trên vai của Trung Quốc” để đạt được những lợi thế với Liên Xô là cách nói thể
hiện một phần nhận định đó. Các cuộc gặp cấp cao giữa Liên Xô và Mỹ vừa góp
phần giảm đi nguy cơ về một cuộc đụng độ quân sự, chiến tranh hạt nhân có thể
xảy ra, thúc đẩy từng bước giải quyết các vấn đề quốc tế lớn, làm dịu tình hình
Châu Âu và quốc tế nhằm tác động đến nền hòa bình an ninh nhân loại; điều quan
trọng là Liên Xô đạt được với Mỹ những cam kết không trợ giúp quân sự hay các
biện pháp cần thiết cho các đối thủ góp phần đe dọa đến an ninh quốc gia nước
này. Tất nhiên để đạt được một số thỏa thuận với Mỹ, Liên Xô phải chấp nhận
một số điều khoản do Washington đề xuất.
PHẦN KẾT LUẬN
Quan
hệ Trung - Xô cuối những năm 1960 xấu đi không chỉ bởi sự bất đồng sâu
sắc về quy chế của vùng ngoại Mông, mà còn bởi rất nhiều tranh chấp
chủ quyền dọc theo biên giới Xô - Trung. Thực tế, những xung đột này
đã mang mầm móng từ bên dưới bề mặt của mối quan hệ Trung - Xô trong
hơn một thế kỷ, kể từ khi đế chế Nga buộc Trung Quốc phải kí một
loạt các hiệp ước nhượng lại nhiều phần lãnh thổ lớn của mình. đối
với Trung Quốc, những phần lãnh thổ bị mất là rất lớn: một vùng
rộng lớn hơn cả phần phía Đông sông Mississibi của nước Mỹ đã trở
thành lãnh thổ của Nga, hoặc trong trường họp ngoại Mông, đặt dưới
sự bảo hộ của Nga. Những tranh chấp biên giới Trung - Xô cuối những
năm 1960 làm Matxcơva và Bắc Kinh vô cùng lo lắng, vì cả Liên Xô và
Trung Quốc điều là các cường quốc hạt nhân; dường như có một sự
đồng thuận không chính thức là không bên nào dùng đến sức mạnh không
quân. Các xung đột biên giới Trung - Xô này đã để lại những hậu quả
rất lớn về xã hội, khiến cả hai quốc gia phải sử dụng những nguồn
lực hiếm hoi để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra
hoặc cho sự leo thang quân sự trong tương lai dọc theo các đường biên
giới Trung. Sự vững tin mới có được của PLA về khả năng có thể
chống chọi được Hồng quân Liên Xô cũng cho phép Bắc Kinh có cơ hội
trong năm 1971 thực hiện chính sách đối ngoại mới thức đẩy quan hệ
than thiện với Mỹ. Ngoài ra, Trung Quốc cũng nổ lực quan hệ cải
thiện với Nhật Bản, kí kết một hiệp ước và tháng 8-1978 với nội
dung dường như có tính chất chỉ trích chính sách đối ngoại của Liên
Xô ở Châu Á bằng việc lên án đích danh “chủ nghĩa bá quyền”. Cuối cùng, những căn thẳng Trung - Xô
cũng đưa đến một số cuộc chiến tranh qua tay người khác ở Đông Nam Á,
chẳng hạn như cuộc xung đột cuối những năm 1970 giữa Việt Nam và
Campuchia, cũng như khiến Trung Quốc chấp nhận vai trò cường quốc khu
vực của mình, trong đó thể hiện rõ nhất bằng cuộc tấn công của
Trung Quốc vào Việt Nam 1979 nhằm cản trở sự ảnh hưởng đang lên của
Liên Xô ở Đông Nam Á.
Trong suốt những năm 1970, những căng thẳng Trung
- Xô vẫn ở mức cao. Trong thời kì này, Matxcơva cố gắng thuyết phục
Bắc Kinh đàm phán một hiệp ước mới hổ trợ hoặc thay thế, Hiệp ước Trung
- Xô 1950. Bắt đầu từ năm 1969 và 1970, Matxcơva đề xuất rằng hai bên
cam kết không tấn công lẫn nhau và đặt biệt là không dùng đến vũ khí
hạt nhân. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh không thể hiện bắt cứ sự quan tâm nào
đến thỏa thuận này, năm 1971 Matxcơva đề xuất việc hai nước kí một
hiệp ước mới cùng nhau từ bỏ việc sử dụng vũ lực. Sau đớ. Năm 1973
Matxcơva thể hiện sự quan tâm bằng đề xuất cụ thể rằng hai nước kí
một hiệp ước không tấn công lẫn nhau; nhưng Bắc Kinh tiếp tục phớt lờ
đi những bước đi của Matxcơva.
Trung Quốc không những không khuất phục
trước sức ép ngoại giao và quân sự
của Liên Xô mà còn tìm cách gây áp lực với Liên Xô bằng việc cũng
cố quan hệ với Mỹ và Nhật Bản. Có thể nói rằng chính sách của
Bắc Kinh đã thành công hơn và kết quả là việc Bắc Kinh kí các thỏa
thuận quan trọng với cả Wasingtơn và Tokyo. Đối với Matxcơva, rõ ràng
các thỏa thuận mới này của Trung Quốc là nhằm chống Liên Xô, do - ít
nhất trong trường hợp hiệp ước Trung - Nhật, cả hai bên lên án “chủ nghĩa bá quyền”, thuật ngữ
mà Trung Quốc thường dùng để chỉ sự bành trướng của Liên Xô. Đối
sách của Liên Xô là tăng cường quan hệ ngoại giao của tất cả các
nước Đông Nam Á có biên giới chung với Trung Quốc, trong đó quan trọng
nhất là Việt Nam.
Hai mươi năm đầy sóng gió trong quan hệ Trung
- Xô trong lịch sử đã trở thành vết sẹo, song nó vẫn không dễ gì
mất đi một sớm, một chiều. Chính vì vậy, khi mối quan hệ “đối tác
chiến lược” Nga - Trung ngày nay phát triển đầy triển vọng, nhưng trong
lòng nó vẫn chứa đựng không ít những tồn tại, thách thức, khiến ta
không khỏi băn khoăn: liệu vết thương
đã được gắn miệng trong quan hệ hai nước có khi nào tái phát trong tương
lai.
TÀI LIỆU
KHAM KHẢO
[1]. William. Bel, 2002, Kit-Sinh-Gơ (Những biên bản hội đàm tuyệt mật chưa công bố),
NXB Thanh niên, Hà Nội.
[2]. Peter
Calvocoressi, 2007, Chính trị thế giới
sau năm 1945, NXB Lao Động, Hà Nội.
[3]. Lê Phụng Hoàng, 2005, Lịch sử quan
hệ quốc tế ở Đông Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh
lạnh (1945 - 1991),
ĐHSPTPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
[4]. Lê Phụng
Hoàng, 2007, Lịch sử quan hệ quốc tế sau
chiến tranh thế giới thứ hai (1945 - 1975), tập 1, ĐHSPTPHCM, Tài liệu lưu
hành nội bộ.
[5]. Nguyễn
Quốc Hùng, Lược sử Liên Bang Nga 1917 -
1991, NXBGD, Hà Nội.
[6]. Nguyễn
Khắc Huỳnh, 2010, Cuộc kháng chiến chống Mỹ
của Việt Nam
dưới tác động của những nhân tố quốc tế, NXBCTQG, Hà Nội.
[7]. Lí Kiện,
2002, Ngọn lửa chiến tranh lạnh, NXB
Thanh niên, tập 2, Hà Nội.
[8]. Lí Kiện,
2008, Trung - Xô - Mỹ cuộc đối đầu lịch
sử, NXB Thanh niên, Hà Nội.
[9]. Văn
Phong - Mục Tử, 2007, Từ Mao Trạch
Đông đến Hồ Cẩm Đào - Năm đời Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc,
NXBCTQG, Hà Nội.
[10]. Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc 30 năm qua, 1979, NXB Sự thật, Hà Nội.
[11]. Ngọc
Thạch, 2003, Những sự kiện lịch sử thế kỉ
XX, NXBVHTT, Hà Nội.
[12]. Nguyễn
Anh Thái, 1990, Lịch sử Trung Quốc,
NXBGD, Hà Nội.
[13]. Nguyễn
Thanh Thủy, 2009, Hai mươi năm sóng gió
trong quan hệ Liên Xô - Trung Quốc (1959 - 1979), Tạp chí Nghiên cứu Châu
Âu, Hà Nội.
[14]. Trần
Nam Tiến (chủ biên) - Nguyễn Tuấn
Khanh - Trần Phi Tuấn, Lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại (1945 - 2000),
NXBGD, Hà Nội.
[15]. Patrick
Tyler, 2008, Một thiên lịch sử sáu đời
tổng thống Mỹ - Trung, NXBCAND, Hà Nội.
[16]. P.Varơnai,
1982, Chủ nghĩa Mao chống phong trào cộng
sản thế giới, NXB TT Lý luận, Hà Nội.
[17]. Trần
Thị Vinh, 2007, Lịch sử thế giới hiện đại,
NXB ĐHSP, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Binh sĩ Trung
Quốc trên đảo Trân Bảo năm 1969
Lính Biên phòng Trung Quốc lâm trận năm 1969
Binh sĩ Liên Xô trên đảo Damansky
Lễ tri điệu các binh sĩ Liên Xô hy sinh năm 1969
Tổng thống Nixon và Kissinger hội kiến trên chiếc Air Force
One
Một vụ thử hạt nhân của Trung Quốc ở Lop Nor
Một trong các cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Mao và Khrushchev
trước khi Trung Quốc và Liên Xô trở mặt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét