MỤC LỤC
I.
MỞ BÀI............................................................................................................................... 2
II.
NỘI DUNG 2
1.
Khái niệm dân tộc......................................................................................................... 2
2.
Nguồn gốc các dân tộc Việt Nam ............................................................................... 2
3.
Đặc điểm các dân tộc Việt Nam ............................................................................... 3
3.1.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc............................................................... 3
3.2.
Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống
đoàn kết trong đấu tranh dựng nước, giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc
thống nhất...................... 4
3.3.
Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau......................................................................... 4
3.4.
Có trình độ phát triển kinh tế- xã hội không
đều nhau............................... 5
3.5.
Nền văn hoá thống nhất trong đa dạng.......................................................... 5
3.6.
Trãi qua lịch sử đấu tranh liên tục, dân tộc
ta đã trưởng thành rất sớm và trở thành một quốc gia độc lập thống nhất yêu hòa
bình.................................................... 6
3.7.
Các dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống trên
các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng 7
III.
KẾT LUẬN 8
IV.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN. 9
A.
MỞ BÀI
Ngày
nay trên toàn thế giới có hơn 3000 tộc người sinh sống nhưng chỉ có khoảng 200
quốc gia. Điều này chứng tỏ một sự thật hiển nhiên là không gian tộc người
không hoàn toàn đồng nhất với phạm vi lãnh thổ quốc gia. Trong lãnh thổ quốc
gia có thể có nhiều tộc người sinh sống và một tộc người có thể sinh sống trên
lãnh thỗ của nhiều quốc gia. Tóm lại, không gian tộc người và lãnh thổ quốc gia
là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, việc một quốc gia có nhiều tộc người và
một tộc người sống ở nhiều quốc gia hoà mình vào các cộng đồng tộc người ở quốc
gia ấy là hiện tượng bình thường và phổ biến ở khu vực Đông Nam Á.
Ở Việt
Nam chúng ta càng thấy rỏ hơn, là một dân tộc nằm trong khu vực Đông Nam Á đã
hình thành từ rất sớm với 54 dân tộc mang sắc thái văn hoá riêng biệt cùng
chung sống với nhau trên cùng một phạm vi lãnh thổ. Tuy đời sống văn hoá tinh
thần có điểm khác nhau nhưng nếu nhìn ở góc độ nào đó thì tất cả điều thống
nhất với nhau. Các nhà văn hoá gọi đây là sự thống nhất trong đa dạng.
B.
NỘI DUNG
1. Khái niệm
-
Nghĩa hẹp: Dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù về
văn hoá; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát triển cao hơn những nhân tố
tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân
cư tộc người đó.
-
Nghĩa rộng: Dân tộc chỉ một cộng đồng người
ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, có nền kinh tế thống
nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau
bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu
tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
2. Nguồn gốc các dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam là một danh từ chung để chỉ các dân tộc
sống trên lãnh thổ Việt Nam. Một
số người cho rằng nguồn gốc của các dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ Trung Hoa,
hoặc Tây Tạng, một số khác cho rằng nguồn gốc chính từ người Việt bản địa. Nhưng căn cứ vào các kết quả nghiên cứu gần
đây, xem xét sự hình thành các dân tộc Việt Nam
trong sự hình thành các dân tộc khác trong khu vực thì có thể nói rằng tất cả
các dân tộc Việt Nam
đều có cùng một nguồn gốc, đó là chủng Cổ Mã Lai.
Quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:
Sơ đồ về sự hình thành
Chủng Nam
Đảo và Chủng Nam Á
-
Theo các nhà nhân chủng
học, nếu phân chia theo hình dáng thì loài người được chia thành bốn
đại chủng chính, đó là: Đại chủng Âu,
Đại chủng Phi,
Đại chủng Á,
Đại chủng Úc
(Đại chủng Phương Nam). Vào thời kỳ đồ đá giữa (khoảng
10.000 năm trước đây), có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở vùng Tây Tạng
di cư về phía đông nam, tới vùng ngày nay là Đông Dương
thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại
chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai.
Người Cổ Mã Lai có nước da ngăm đen, tóc quăn gợn sóng, tầm vóc thấp. Người Cổ
Mã Lai từ vùng Đông Dương lan tỏa về hướng bắc tới sông Dương Tử; về phía tây tới Ấn Độ,
về phía nam tới các đảo của Indonesia,
về phía đông tới Philippines.
-
Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng (khoảng 5.000 năm trước đây).
Tại khu vực mà ngày nay là miền bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc (từ sông Dương
Tử trở xuống), có sự chuyển biến do chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với
Đại chủng Á từ phía Bắc tràn xuống, sự chuyển biến này hình thành một chủng mới
là chủng Nam Á. Do hai lần hòa nhập với Đại chủng Á mà Chủng Nam Á có những nét
đặc trưng nổi trội của Đại chủng Á hơn là những nét đặc trưng của Đại chủng Úc.
Cũng chính vì thế Chủng Nam Á được liệt vào một trong những bộ phận của Đại
chủng Á.
-
Thời kỳ sau đó, Chủng Nam Á
được chia thành một loạt các dân tộc mà các cổ thư Việt Nam và Trung
Hoa gọi là Bách Việt. Thực ra
không có đến một trăm (bách)
dân tộc nhưng quả thật đó là một cộng đồng dân cư rất đông đúc bao gồm: Điền
Việt (cư trú tại Vân Nam,
Trung Quốc), Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt (cư trú tại Quảng Đông,
Trung Quốc), Lạc Việt (cư trú tại Quảng Tây,
Trung Quốc và Bắc bộ Việt Nam), sinh
sống từ vùng nam sông Dương Tử
cho đến Bắc bộ Việt Nam. Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn- Khmer, Việt- Mường, Tày- Thái, Mèo- Dao,... Sau này quá
trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như
ngày nay. Trong khi đó, phía nam Việt Nam , dọc theo dải Trường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ
Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành Chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân
tộc thuộc nhóm Chàm.
3.
Đặc điểm các dân tộc Việt Nam
3.1.
Việt Nam
là một quốc gia có nhiều dân tộc.
Việt Nam
là quốc gia có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa
riêng. 54 dân tộc trong đó dân tộc kinh chiếm 86% dân số, 53 dân tộc còn lại
chiếm 14% dân số, phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người là: Tày, Nùng,
Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân dưới 100
ngàn người, 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 6 dân
tộc có số dân dưới 1 ngàn người (Cống, Sila, Pupéo, Rơmăm, Ơ đu, Brâu).
Tuy có sự chênh lệch đáng kể về đời sống vật chất cũng như tinh
thần, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức,
đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có tình trạng dân
tộc ít người chống lại dân tộc đa số.
3.2.
Các dân tộc trên đất
nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước, giữ nước, xây dựng một
cộng đồng dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh: “Đồng bào Kinh
hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc
thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống
chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói có nhau”.
Từ mấy nghìn năm nay, từ khi bắt đầu hình thành nhà nước các dân tộc
cùng chung sống trên dải đất Việt Nam có nhu cầu tự nhiên là phải liên kết nhau
lại để chống chọi với thiên tai, giặc giã, trở thành một cộng đồng bền chặt-
đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cùng nhau dựng nước và giữ nước. Đoàn kết là
truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc ta.
Từ cuộc đời tối tăm dưới ách áp
bức của thực dân, ăn đói, mặc rách, mù chữ..., đồng bào các dân tộc đã đứng lên
đi theo ánh sáng cách mạng, kề vai sát cánh, chia ngọt sẻ bùi cùng các dân tộc
cùng nhau chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
3.3.
Dân tộc Việt Nam cư trú
phân tán, xen kẻ nhau.
Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song
nhìn chung các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt
như một số nước trên thế giới.
-
Ðịa bàn cư trú của người Kinh
chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ
yếu ở các vùng miền núi và vùng cao, một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít
vùng Chăm sống ở đồng bằng.
-
Các dân tộc thiểu số có sự tập
trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt mà xen
kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và các bản mường. Bản Phiêng Luông có người Dao là đông nhất
với 32 hộ, người Tày 9 hộ, 17 hộ người Mông, 4 hộ người Sán Chí, 2 hộ người
Nùng và 1 hộ người Kinh. Cách
đây ba, bốn chục năm chỉ có những ngôi nhà của người Êđê, Bana, Giarai, Xơđăng,
Cơho, Mơnông cư trú trên mảnh đất Tây Nguyên. Ngày nay, cùng với sự di dân đã
xuất hiện thêm những ngôi nhà của dân tộc Kinh, Tày, Nùng, và một số dân tộc ít
người ở đây.
-
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, tạo điều
kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong cùng một địa phương giúp
các dân tộc ngày một hiểu nhau hơn.
Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới
sự giao lưu kinh tế- văn hoá giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn
nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các dân tộc
khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa
các dân tộc.
3.4.
Các dân tộc ở Việt Nam
có trình độ phát triển kinh tế- xã hội không đều nhau.
Do điều kiện tự nhiên nên sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế,
văn hoá giữa các dân tộc, giữa các vùng dân cư thể hiện rõ rệt.
Đầu tiên là kỹ thuật canh tác: Bà con dân tộc miền núi thì kỹ thuật
canh tác thô sơ, chủ yếu dựa vào sức người là chính, địa hình đồi núi khó áp
dụng những tiến bộ khoa học kỉ thuật. Cư dân ở khu vực đồng bằng đã vận dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra năng suất lao động cao. Trong khi đó ở
khu vực thành thị nhiều người có cuộc sống đầy đủ tiện nghi. Giữa nhiều vùng
còn có sự chênh lệch thể hiện ở: Đường giao thông, phương tiện, dịch vụ chăm
sóc y tế, giáo dục… Tuy nhiên Đảng ta đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế linh
hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tế của từng khu vực, tỉnh thành trong
cả nước.
3.5.
Dân tộc Việt Nam
có nền văn hoá thống nhất trong đa dạng.
Văn hoá Việt Nam
là sự thống nhất trong đa dạng. Từ cơ tầng văn hoá Đông Nam Á thời tối cổ, thời
tiền sử trên dải đất Việt Nam hiện nay xuất hiện ba nền văn hoá: Đông Sơn (ở
châu thổ Bắc Bộ), Sa Huỳnh (Trung Bộ), Đồng Nai (Nam Bộ). Thời sơ sử và sang
thiên niên kỷ đầu Công nguyên, lịch sử đã đưa ba nền văn hoá này đến ba số phận
khác nhau; ở châu thổ Bắc Bộ bị sự thống trị của phong kiến Trung Quốc hơn 1000
năm, ở duyên hải Trung Bộ là văn hoá Champa, ở Nam Bộ là văn hoá Óc Eo, để rồi
hoà trộn trong nền văn hoá Việt Nam, tạo ra sự đa dạng trong sự thống nhất.
v
Nền văn hóa Đông Sơn: Ra đời là kết quả của sự hội tụ của
nhiều văn hoá rực rỡ trước văn hoá Đông Sơn thuộc thời đại đồng thau, trong quá
trình chiếm lĩnh vùng đồng bằng các con sông lớn ở miền Bắc Việt Nam , chủ yếu là
lưu vực sông Hồng.
v
Nền văn hóa Sa Huỳnh: là một nền văn hóa được xác định ở vào
khoảng 1000 năm TCN đến cuối thế kỷ thứ II. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong
ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ Việt Nam , cùng với: Văn hóa Đông Sơn,
Văn hóa Óc Eo, tạo thành tam giác
văn hóa Việt.
v
Văn hóa Đồng Nai: phát triển trong thiên niên kỷ I,II
trước Công Nguyên đã được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa
bản địa ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt.
© Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Á:
○
Nhóm ngôn ngữ Việt- Mường: Gồm các dân tộc Kinh,
Mường, Thổ, Chứt.
○
Nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer: Gồm các dân tộc Khơ
Mú, Kháng, Mảng, Xinh Mun, Bru Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Co, Hrê, Gie Triêng, Ba
Na, Xơ Đăng, Brâu, Rơ Măm, Mnông, Mạ, Cơ Ho, Xtiêng, Chơ Ro, Khơme, Ơ Đu.
○
Nhóm ngôn ngữ Tày- Thái: Gồm các dân tộc Tày,
Thái, Nùng, Sán Chay, Giấy, Lào, Lự, Bố Y.
○
Nhóm ngôn ngữ H'mông- Dao: Gồm các dân tộc H’mông,
Dao, Pà Thẻn.
○
Nhóm ngôn ngữ Ka Đai: Cơ Lao,
La Chí, Pu Péo, La Ha.
© Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Đảo:
○ Nhóm ngôn ngữ Malaio Polinexia: Gồm các dân tộc Chăm, Chu Ru, Gia Rai, Ê Đê, Raglai.
© Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán Tạng:
○
Nhóm ngôn ngữ Tạng Miến: Gồm các tộc Hà Nhì, La
Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Si La.
○
Nhóm ngôn ngữ Hán: Gồm các tộc Hoa, Ngái, Sán
Dìu.
Bên cạnh sự đa dạng về ngôn ngữ, thì mỗi dân tộc lại có phong tục
tập quán mang những giá trị và sắc thái văn hoá riêng.
-
Người Chăm ở duyên hải miền
Trung lại có những đền tháp, tác phẩm điêu khắc đá, những bia ký trên đá.
-
Người Khơme Nam Bộ: có một kho tàng văn học Phật
giáo, nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc Phật giáo khá lớn, có những ngôi chùa
là một trung tâm văn hoá và nhiều lễ hội độc đáo.
-
Người Tày- Thái: ở vùng núi cao phía Bắc lại có
những nếp nhà sàn, có một kho tàng văn học dân gian đa dạng…
-
Mặc dù có những sắc thái riêng
nhưng các dân tộc ở Việt Nam
lại có những yếu tố rất chung về văn hoá. Đảng và nhà nước ta luôn luôn tôn
trọng bản sắc văn hóa riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc.
3.6.
Trải qua lịch sử liên tục chống ngoại xâm, dân tộc ta đã trưởng
thành rất sớm và trở thành một quốc gia độc lập thống nhất yêu hoà bình.
Nhìn lại con đường lịch sử đã qua, trong bốn nghìn năm dựng nước và
giữ nước, dân tộc ta đã phải bao lần chiến đấu chống ngoại xâm gần như thường xuyên
và đã chiến thắng một cách oanh liệt. Đó là một nét nổi bật của lịch sử và con
người Việt Nam ,
là thử thách gay go nhất nhưng cũng là niềm tự hào lớn nhất của dân tộc ta.
-
Vị trí địa lý: Việt Nam
là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương. Việt Nam có diện
tích 330.991 km2. Với đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km,
phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc, phía Tây Bắc tiếp giáp với Lào và Tây Nam
giáp Campuchia và Vịnh Thái Lan; phía Đông và Nam giáp biển Đông. Với vị thế
đặc biệt này, Việt Nam
trở thành mảnh đất mầu mỡ khiến các thế lực xâm lăng muốn chiếm đoạt.
-
Nhưng với sự lảnh đạo tài tình,
sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã anh dũng, bền gan, vững chí
đánh thắng kẻ thù xâm lược qua nhiều thế hệ. Vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho cả dân tộc, trịnh trọng tuyên bố trước đồng bào
và toàn thế giới: “…Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc
lập ấy”.
Ä Như vậy, dân tộc Việt Nam đã trải qua thời gian dài dựng
nước và giữ nước; trải qua nhiều cuộc chiến đẫm máu để giành lấy độc lập dân
tộc. Đó là bằng chứng về một tinh thần yêu nước, sự đoàn kết dân tộc, sự quả
cảm của những con người anh hùng, cùng nhau hướng tới xây dựng một xã hội tốt
đẹp, không còn chiến tranh, một dân tộc hoà bình, thống nhất. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2010, Thành ủy, HĐND, UBND
Thành phố Hà Nội đã long trọng tổ chức Lễ khánh thành Công viên Hòa Bình, tại
Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội. Công viên nhằm nhấn mạnh
thông điệp “chúng tôi muốn thế giới này mãi mãi hoà bình”.
Năm 2000, cùng với 4 thành phố khác trên thế giới, Hà Nội là Thành
phố duy nhất đại diện cho Châu Á nhận giải thưởng “Thành phố vì Hòa bình” của
UNESCO trao tặng. Năm 2001, Thành phố đã phê duyệt chủ trương xây dựng một công
viên mang biểu tượng của Thành phố Thủ đô- Thành phố vì hòa bình- Công viên Hòa
Bình. Trong công viên, Tượng đài Hòa Bình là hạt nhân chính được đúc bằng
đồng nặng khoảng 20 tấn, cao 7,2m đặt trên đài đế cao 22,8m.
3.7.
Các dân tộc thiểu số lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến
lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế.
Theo số liệu tổng điều tra dân số, tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009, dân
số của Việt Nam
là 85.789.573 người. Dân số Việt Nam gồm 54 dân tộc. Dân tộc đông
nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân
nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng, Hmông, người Dao, Giarai, Êđê, Chăm,
Sán Dìu. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc,
Tây Nguyên và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ Đu và
Rmăm chỉ có trên 300 người.
v Dân tộc
Tày: sống chủ
yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang… Theo thống kê gần đây, người Tày có khoảng 1 triệu 700 ngàn người.
Đây là dân tộc có số dân đông nhất sau người Kinh trong cộng đồng các dân tộc ở
Việt Nam .
v
Dân tộc Thái: (520.000), cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình,
Nghệ An...
v
Dân tộc Mường: (914.600), sống chủ yếu tại tỉnh Hòa Bình, các huyện miền núi tỉnh
Thanh Hóa một số huyện miền núi của Nghệ An.
v Người Hoa:
(450.000), người gốc Trung Quốc định
cư ở Việt Nam, sống tập trung đông nhất (50%) tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ
Chí Minh, 50% còn lại sinh sống phân tác ở các tỉnh thành trên toàn quốc, phần
nhiều tại các tỉnh miền Tây Việt Nam.
v Người Khmer: (447.000), thuộc nhóm ngôn
ngữ Môn- Khmer, sống chủ yếu tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
v
Dân tộc Nùng:
(353.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái, sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn,
Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang.
v
H'Mông (479.000),
hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc, tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và
Tây Bắc Việt Nam như Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...
v
Dao (237.000),
cư trú chủ yếu dọc biên giới Việt- Trung, Việt- Lào và ở một số tỉnh trung du
và ven biển Bắc bộ Việt Nam.
v
Giarai (121.000),
thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía
Bắc tỉnh Đắc Lắc.
v
Êđê (97.000),
thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở Đắc Lắc, phía Nam Gia Lai và phía
Tây hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên.
v Những dân tộc còn lại có dân số dưới 90.000 người, một nửa trong số
đó có dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng
sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các
dân tộc Brâu, ƠĐu và Rmăm chỉ có khoảng vài trăm người.
-
Như vậy, các dân tộc
thiểu số tuy chỉ chiếm số lượng nhỏ trong dân số cả nước (13,8%) nhưng lại cư
trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế,
quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế. Cùng với quá trình dựng nước và giữ
nước, nền văn hoá Việt Nam
đã hình thành và phát triển bền vững. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh
bền bỉ, kiên cường, nhân dân ta đã xây đắp lên một nền văn hoá kết tinh sức
mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự
trường tồn của dân tộc Việt Nam .
Từ các đặc điểm trên, càng thấy rõ được đậm nét tinh thần ấy. Biết đoàn kết dân
tộc, sẽ là sức mạnh mang lại những thắng lợi to lớn hơn cho sự nghiệp xây dựng
đất nước.
III. KẾT LUẬN
Trãi qua thời gian dài trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, đặc
biệt là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, tất cả các dân tộc đều tham
gia vào công cuộc xây dựng đất nước đặc biệt là sau ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối và chính sách dân tộc đúng
đắn, đời sống kinh tế, văn hoá xã hội của các dân tộc ngày một phát triển. Do
hậu quả của quá trình phát triển lịch sử, trình độ phát triển kinh tế xã hội của
các dân tộc ở nước ta hiện nay còn có sự chênh lệch. Đặc biệt các dân tộc miền
núi vùng xâu vùng xa, thu nhập và đời sống nhân dân còn thấp, nghèo đói vẫn còn
là sự thách đố trên con đường phát triển. Trước thực tiễn xã hội đó Đảng và nhà
nước ta đã và đang cố gắng tìm mọi cách cân bằng đời sống kinh tế giữa các vùng
dân tộc trong nước.
IV. NHẬN XÉT
CỦA GIẢNG VIÊN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét