CHỈ ĐẠO ĐẤU TRANH TRÊN MẶT TRẬN QUÂN SỰ
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA ĐẢNG
(1954-1975)
1. Đặt vấn đề
Dân tộc Việt Nam từ thời kì dựng nước cho đến
khi cuộc kháng chiến chống Mĩ thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Nhân
dân ta đã chống trả rất kiên cường trước những kẻ thù lớn mạnh hơn mình về mọi
mặt, nhưng cuối cùng cũng phải thất bại, đất nước được yên bình, nhân dân an cư
lạc nghiệp. Có được thắng lợi đó là do nhân dân ta đã kế thừa và sáng tạo ra một
đường lối nghệ thuật quân sự rất độc đáo mà không một nơi nào có được. Nghệ thuật
ấy trãi qua hàng nghìn năm được kế thừa và vun đắp trở thành một đường lối chỉ đạo
cuộc chiến tranh chống xâm lược. Và đặt biệt là từ khi có Đảng nghệ thuật ấy được
nâng lên một trình độ mới và phát triển đến đỉnh cao cùng với sự trưởng thành của
Đảng: đó là nghệ thuật của chiến tranh nhân dân; chiến tranh chính nghĩa; dựa vào
sức mình là chính; nghệ thuật dám đánh, biết đánh và biết thắng kẻ thù, nghệ
thuật thắng đối phương bằng mưu kế, thời và thế…..Tất cả những yếu tố đó đã khái
quát được nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống Mĩ và được thể hiện dưới
những góc độ khác nhau trong từng trận đánh, từng chiến dịch cũng như trong từng
thời kì.
Nước ta là một nước nhỏ phải đương đầu với
những đối thủ mạnh hơn mình về nhiều mặt, để đủ sức đánh bại kẻ thù ta phải sử
dụng chiến tranh nhân dân, đánh lâu dài, lấy ít địch nhiều vừa đánh vừa bồi dưỡng
sức dân, xây dựng và phát huy sức mạnh của ta, kiềm chế những mặt mạnh của chúng
đánh địch bằng mưu kế thời, và thế.
Chỉ có như thế mới tạo nên thời cơ thuận lợi để tiến lên giành thắng lợi hoàn
toàn. Đảng ta hiểu rất rõ điều đó, nên ngay từ khi Mĩ giúp đỡ Pháp can thiệp vào
nước ta thì Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại âm mưu đó.
2. Nội dung
2.1-Kiềm chế đế quốc
Mỹ để thắng chúng một cách có lợi nhất
Luôn tìm cách kiềm chế đế quốc Mỹ để tránh thế khó khǎn bất lợi và thắng chúng một cách có lợi nhất là một chủ trương nhất quán của Đảng ta. Chủ trương đó dựa trên cơ sở phân tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả nǎng hành động của đế quốc Mỹ trong các mối quan hệ quốc tế đương thời; mặt khác thấy rõ thế và lực cùng khả nǎng phát triển của ta.Đế quốc Mỹ mang dã tâm xâm lược nước ta, vì vậy, tìm cách kiềm chế những âm mưu và hành động của chúng là cần thiết và có thể thực hiện được.
Trước hết, tránh những khó khǎn, bất lợi sớm phải đụng đối với một kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần, mà lực lượng của ta còn hạn chế. Chúng ta có chính nghĩa và đang ở thế phát triển, nên có khả nǎng tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong nước và tranh thủ được các lực lượng dân chủ và hoà bình trên thế giới, có khả nǎng ngǎn chặn, phá tan những âm mưu và hành động chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là phi nghĩa, không thể lừa bịp được mãi nhân dân và Quốc hội Mỹ. Nước Mỹ tuy giàu có bậc nhất thế giới, song không phải bọn xâm lược Mỹ muốn huy động bao nhiêu lực lượng vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta cũng được. Mỹ có chiến lược toàn cầu phản cách mạng, nhưng không phải lực lượng của Mỹ ở đâu cũng mạnh, chúng cũng phải tự kiềm chế:
2.2. Kiềm chế Mỹ chậm đưa quân vào trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta
Luôn tìm cách kiềm chế đế quốc Mỹ để tránh thế khó khǎn bất lợi và thắng chúng một cách có lợi nhất là một chủ trương nhất quán của Đảng ta. Chủ trương đó dựa trên cơ sở phân tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả nǎng hành động của đế quốc Mỹ trong các mối quan hệ quốc tế đương thời; mặt khác thấy rõ thế và lực cùng khả nǎng phát triển của ta.Đế quốc Mỹ mang dã tâm xâm lược nước ta, vì vậy, tìm cách kiềm chế những âm mưu và hành động của chúng là cần thiết và có thể thực hiện được.
Trước hết, tránh những khó khǎn, bất lợi sớm phải đụng đối với một kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần, mà lực lượng của ta còn hạn chế. Chúng ta có chính nghĩa và đang ở thế phát triển, nên có khả nǎng tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong nước và tranh thủ được các lực lượng dân chủ và hoà bình trên thế giới, có khả nǎng ngǎn chặn, phá tan những âm mưu và hành động chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là phi nghĩa, không thể lừa bịp được mãi nhân dân và Quốc hội Mỹ. Nước Mỹ tuy giàu có bậc nhất thế giới, song không phải bọn xâm lược Mỹ muốn huy động bao nhiêu lực lượng vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta cũng được. Mỹ có chiến lược toàn cầu phản cách mạng, nhưng không phải lực lượng của Mỹ ở đâu cũng mạnh, chúng cũng phải tự kiềm chế:
2.2. Kiềm chế Mỹ chậm đưa quân vào trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta
Đầu những nǎm
40, đế quốc Mỹ đã có âm mưu xâm chiếm Việt Nam, nhất là từ đầu những nǎm 50 thì
Mỹ triển khai ráo riết. Phân tích đúng âm mưu của Mỹ, Đảng ta đã lãnh đạo toàn
dân kiên quyết đứng lên làm Cách mạng tháng Tám nǎm 1945, giành chính quyền về
tay nhân dân trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương, cũng như đánh bại
thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ trong kháng chiến 9 nǎm, nên đã kiềm chế
và chặn đứng Mỹ đưa quân, kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta.
Sau Hiệp định
Giơnevơ (7-1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam
nước ta, chúng thiết lập chế độ thực dân mới và dựng nên chính quyền tay sai
Ngô Đình Diệm. Chế độ Mỹ - Diệm đàn áp dã man phong trào đấu tranh của nhân dân
ta ở miền Nam .
Nhân dân ta không chịu khuất phục đã vùng lên chống lại chúng, Đảng ta đã ra
Nghị quyết 15 (1-1959) về cách mạng miền Nam . Nghị quyết ra đời tuy có phần
muộn, nhưng cũng đã kịp phát động quần chúng đấu tranh, đi tới cao trào đồng
khởi khắp miền Nam .
Phong trào đồng khởi đã đưa cách mạng miền Nam “từ thế giữ gìn lực lượng sang
thế tiến công”, là sự sáng tạo cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam, mở đâu
cuộc chiến tranh cách mạng từ thấp lên cao, vừa tầm, vừa sức của lực lượng cách
mạng miền Nam mới nổi dậy và đã kiềm chế được đế quốc Mỹ sớm đưa quân vào miền
Nam, tránh được những khó khǎn, bất lợi của cách mạng miền Nam trong buổi ban đầu.
2.3. Kiềm chế đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh từng bước
2.3. Kiềm chế đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh từng bước
Bước vào những
nǎm 60, lực lượng so sánh trên thế giới nghiêng hẳn về phía cách mạng và hòa
bình. Khả nǎng ngǎn chặn chiến tranh thế giới ngày càng nhiều. Chính sách “bên
miệng hố chiến tranh” của Mỹ cùng chiến lược quân sự mang tính chất phản công
của chúng như “trấn áp ồ ạt”, “trả miếng hàng loạt” đã bị phá sản. Để thích ứng
với tình hình, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược quân sự mới vừa có tính chất
tiến công, vừa có tính chất phòng ngự. Đó là chiến lược “phản ứng linh hoạt”
với ba loại chiến tranh: “chiến tranh thế giới”, “chiến tranh cục bộ”, và “chiến
tranh đặc biệt”. Ở miền Nam
nước ta từ khi có Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã thực hiện "chiến
tranh đặc biệt" nhằm ba mục đích:
- Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách thực dân mới
- Xây dựng cǎn cứ quân sự, chuẩn bị tiến công phe xã hội chủ nghĩa
- Ngǎn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam Á .
Thực hiện ba mục đích trên, đế quốc Mỹ muốn khắc phục những mâu thuẫn đang tồn tại ở miền Nam Việt Nam: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa với lực lượng đế quốc chủ nghĩa, và mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp.
- Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách thực dân mới
- Xây dựng cǎn cứ quân sự, chuẩn bị tiến công phe xã hội chủ nghĩa
- Ngǎn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam Á .
Thực hiện ba mục đích trên, đế quốc Mỹ muốn khắc phục những mâu thuẫn đang tồn tại ở miền Nam Việt Nam: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa với lực lượng đế quốc chủ nghĩa, và mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp.
Nhưng trên
thực tế, Mỹ thực hiện “chiến tranh đặc biệt” chống lại nhân dân ta lại càng làm
sâu sắc những mâu thuẫn đó. Đảng ta chỉ ra rằng, cách mạng miền Nam đề ra nhiệm
vụ chống đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình trung lập
là để chủ động kiếm chế địch trong loại “chiến tranh đặc biệt” và tìm cách hoà
hoãn mâu thuẫn giữa lực lượng đế quốc chủ nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa
trên vấn đề miền Nam Việt Nam, tranh thủ giai cấp tư sản dân tộc ở miền Nam để
chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của các nước dân
tộc chủ nghĩa và khơi sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và đế quốc Pháp.
Đảng ta khẳng định, chúng ta cần phải và có khả nǎng kiềm chế và thắng địch trong loại chiến tranh đặc biệt. Bởi vì, khả nǎng này sẽ tǎng lên nhiều, nếu chúng ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời có sách lược khôn khéo biết lợi dụng hơn nữa mâu thuẫn trong nội bộ địch, giữa đế quốc Mỹ và các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp, giữa Mỹ và bọn tay sai ở miền Nam với bọn tư bản cầm quyền ở Đông Nam á, do đó mà làm cho đế quốc Mỹ khó sử dụng được lực lượng của khối xâm lược Đông Nam á để mở rộng chiến tranh ở miền Nam. Mặt khác, chúng ta phải tranh thủ mở rộng phong trào chống đế quốc Mỹ gây chiến và xâm lược, làm cho nhân dân thế giới, nhất là nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc Á, Phi và Mỹ latinh, ủng hộ cách mạng miền Nam ngày càng sâu rộng và thiết thực hơn nữa.
Kiềm chế và thắng Mỹ trong “chiến tranh đặc biệt” là chúng ta đã đẩy Mỹ vào thế bị động leo thang chiến tranh từng bước.
Nhân dân ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đạo trên của Đảng Đó là quá trình nhân dân ta tiến hành ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự chống địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao để cô lập địch, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ đối với ta trên trường quốc tế, mà đấu tranh chính trị và quân sự ở miền Nam là cơ bản và đấu tranh ngoại giao là rất quan trọng. Thực hiện quá trình đó, nhân dân ta đã phá tan các hành động chiến tranh của Mỹ - ngụy và làm phá sản các chiến thuật tân kỳ của chúng làm cho chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ bị thất bại.
Đảng ta khẳng định, chúng ta cần phải và có khả nǎng kiềm chế và thắng địch trong loại chiến tranh đặc biệt. Bởi vì, khả nǎng này sẽ tǎng lên nhiều, nếu chúng ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời có sách lược khôn khéo biết lợi dụng hơn nữa mâu thuẫn trong nội bộ địch, giữa đế quốc Mỹ và các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp, giữa Mỹ và bọn tay sai ở miền Nam với bọn tư bản cầm quyền ở Đông Nam á, do đó mà làm cho đế quốc Mỹ khó sử dụng được lực lượng của khối xâm lược Đông Nam á để mở rộng chiến tranh ở miền Nam. Mặt khác, chúng ta phải tranh thủ mở rộng phong trào chống đế quốc Mỹ gây chiến và xâm lược, làm cho nhân dân thế giới, nhất là nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc Á, Phi và Mỹ latinh, ủng hộ cách mạng miền Nam ngày càng sâu rộng và thiết thực hơn nữa.
Kiềm chế và thắng Mỹ trong “chiến tranh đặc biệt” là chúng ta đã đẩy Mỹ vào thế bị động leo thang chiến tranh từng bước.
Nhân dân ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đạo trên của Đảng Đó là quá trình nhân dân ta tiến hành ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự chống địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao để cô lập địch, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ đối với ta trên trường quốc tế, mà đấu tranh chính trị và quân sự ở miền Nam là cơ bản và đấu tranh ngoại giao là rất quan trọng. Thực hiện quá trình đó, nhân dân ta đã phá tan các hành động chiến tranh của Mỹ - ngụy và làm phá sản các chiến thuật tân kỳ của chúng làm cho chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ bị thất bại.
Mặt khác, đế
quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là nhằm thực hiện một khâu quan trọng trong
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, nhằm thiết lập ở miền Nam chế độ
thực dân mới. Tất cả các âm mưu, thủ đoạn chính trị và quân sự của Mỹ đêu nhằm
mục đích đó. Do vậy, Mỹ thực hiện chiến tranh đặc biệt, hay trước thất bại nặng
nề mà liều lĩnh tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền
Bắc bằng không quân và hải quân cũng đều nhằm mục đích đó. Mỹ không thể liều
lĩnh đến mức có thể gây phương hại đến chiến lược toàn cầu phản cách mạng của
chúng. Điều đó đòi hỏi Mỹ phải có thời gian để xây dựng ngụy quân, ngụy quyền
làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của chúng, đánh phá lực lượng cách
mạng miền Nam bằng những thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt hơn. Do vậy, Mỹ buộc phải
thực hiện chính sách leo thang chiến tranh từng bước.
2.4. Kiềm chế chiến lược “chiến tranh cục bộ” của
đế quốc Mỹ trên phạm vi chiến trường miền Nam
Giữa nǎm 1965, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ hoàn toàn phá sản, tổng thống Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, thực hiện chiến tranh cục bộ và tǎng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận định: trong khi chiến lược quân sự của địch đã có sự thay đổi và đã vượt khỏi khuôn khổ của "chiến tranh đặc biệt" thì mục đích chính trị của đế quốc Mỹ. ở miền Nam vẫn là tiếp tục thực hiện chính sách thực dân kiểu mới, tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ đưa quân đội viễn chinh vào, miền Nam không những để tǎng cường hoạt động quân sự và còn để tạo điều kiện ổn định ngụy quyền, ra sức xây dựng lực lượng tay sai của chúng về mọi mặt, tức là chúng cố dựng cho được chế độ thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam. Đảng ta phân tích các mối quan hệ giữa Mỹ và các nước, các khu vực trên thế giới: rõ ràng là tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình hình riêng của nước Mỹ không cho phép sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.
Mỹ thua trong chiến tranh đặc biệt, buộc phải đưa quân viễn chinh và chư hầu vào miềnNam
mở rộng chiến tranh, chúng đã mắc sai lầm đánh giá quá thấp lực lượng của ta. Chúng
tính, với chiến tranh cục bộ sẽ thay đổi thế bị động của chúng thành thế chủ
động và đẩy lực lượng cách mạng từ thế chủ động, thế thắng thành thế bị động và
bị tiêu diệt.
Phân tích toàn diện thế và lực cách mạng cả nước ta lúc này, Đảng ta kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miềnNam
hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay
đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân
ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến
trường, có lực lượng và điều kiện đánh bại âm mưu trước mất và lâu dài của
địch.
Đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc để leo thang chiến tranh chống ViệtNam ,
nhưng cũng chỉ có giới hạn. Vì với cách mạng Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa khác lúc này vẫn hết lòng ủng hộ và chi viện có hiệu
quả. Đồng thời, phong trào độc lập dân tộc, hoà bình, cùng những nhà hoạt động
chính trị - xã hội nổi tiếng trên thế giới, đã hình thành trong thực tế mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Như vậy, Đảng ta đánh giá đúng việc Mỹ đưa hàng chục vạn quân vào miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, đánh giá đúng lực lượng và khả nǎng của địch, đồng thời đánh giá đúng lực lượng và khả nǎng to lớn của nhân dân ta ở cả hai miền và các điều kiện quốc tế. Trên cơ sở đó, Đảng đã xác định quyết tâm chiến lược đúng đắn là: tập trung lực lượng cả nước, kiên quyết đánh địch và thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó. Chúng ta động viên lực lượng cả nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày càng sa lầy và thất bại lớn, đi tới giành thắng lợi quyết định ở miền Nam.
Tuy vậy, Đảng ta cũng chỉ ra là cần phải đề phòng đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả miền Bắc, phải xây dựng và bố trí lực lượng sẵn sàng đánh bại chúng ngay từ trận đầu nếu xảy ra. Có đường lối đúng đắn lại được chỉ đạo thường xuyên và kịp thời của Trung ương và các cấp đảng bộ, nhân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã phối hợp nhịp nhàng trong chiến đấu và xây dựng lực lượng, đã làm thất bại tất cả các kế hoạch quân sự của Mỹ - nguỵ, bẻ gẫy tất cả các cuộc phản công của địch, dồn địch vào thế tiến thoái lưỡng nan, trên cơ sở đó ta mở cuộc tiến công chiến lược Xuân 1968, làm phá sản kế hoạch chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã giữ vững được thế thắng, kiềm chế và thắng địch trong chiến tranh cục bộ của chúng trên chiến trường miền Nam.
Giữa nǎm 1965, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ hoàn toàn phá sản, tổng thống Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, thực hiện chiến tranh cục bộ và tǎng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận định: trong khi chiến lược quân sự của địch đã có sự thay đổi và đã vượt khỏi khuôn khổ của "chiến tranh đặc biệt" thì mục đích chính trị của đế quốc Mỹ. ở miền Nam vẫn là tiếp tục thực hiện chính sách thực dân kiểu mới, tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ đưa quân đội viễn chinh vào, miền Nam không những để tǎng cường hoạt động quân sự và còn để tạo điều kiện ổn định ngụy quyền, ra sức xây dựng lực lượng tay sai của chúng về mọi mặt, tức là chúng cố dựng cho được chế độ thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam. Đảng ta phân tích các mối quan hệ giữa Mỹ và các nước, các khu vực trên thế giới: rõ ràng là tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình hình riêng của nước Mỹ không cho phép sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.
Mỹ thua trong chiến tranh đặc biệt, buộc phải đưa quân viễn chinh và chư hầu vào miền
Phân tích toàn diện thế và lực cách mạng cả nước ta lúc này, Đảng ta kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền
Đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc để leo thang chiến tranh chống Việt
Như vậy, Đảng ta đánh giá đúng việc Mỹ đưa hàng chục vạn quân vào miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, đánh giá đúng lực lượng và khả nǎng của địch, đồng thời đánh giá đúng lực lượng và khả nǎng to lớn của nhân dân ta ở cả hai miền và các điều kiện quốc tế. Trên cơ sở đó, Đảng đã xác định quyết tâm chiến lược đúng đắn là: tập trung lực lượng cả nước, kiên quyết đánh địch và thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó. Chúng ta động viên lực lượng cả nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày càng sa lầy và thất bại lớn, đi tới giành thắng lợi quyết định ở miền Nam.
Tuy vậy, Đảng ta cũng chỉ ra là cần phải đề phòng đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả miền Bắc, phải xây dựng và bố trí lực lượng sẵn sàng đánh bại chúng ngay từ trận đầu nếu xảy ra. Có đường lối đúng đắn lại được chỉ đạo thường xuyên và kịp thời của Trung ương và các cấp đảng bộ, nhân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã phối hợp nhịp nhàng trong chiến đấu và xây dựng lực lượng, đã làm thất bại tất cả các kế hoạch quân sự của Mỹ - nguỵ, bẻ gẫy tất cả các cuộc phản công của địch, dồn địch vào thế tiến thoái lưỡng nan, trên cơ sở đó ta mở cuộc tiến công chiến lược Xuân 1968, làm phá sản kế hoạch chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã giữ vững được thế thắng, kiềm chế và thắng địch trong chiến tranh cục bộ của chúng trên chiến trường miền Nam.
2.5. Biết giành thắng lợi từng bước.
- Chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đánh thắng chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy
Tháng 11-1959, xứ uỷ Nam Bộ quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương. Nghị quyết 15 đi vào cơ sở giữa lúc quần chúng đang sôi sục cǎm thù Mỹ - Diệm, đã bùng lên thành phong trào đông khởi khắp miềnNam .
Phong trào đông khởi đã giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất
bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc
Mỹ. Đây là một mốc rất quan trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công,
làm thất bại kế hoạch chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Sau Đồng khởi, một vấn đề
đặt ra là làm thế nào để giữ được thế làm chủ của nhân dân. Tháng 1-1961, Bộ
Chính trị họp và ra nghị quyết chỉ rõ hướng phát triển của cách mạng miền Nam
sau Đồng khởi là chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng, kết
hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng để đưa cách mạng tiến lên.
Bộ Chính trị cũng chỉ rõ phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam
sau Đồng khởi là: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu
tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai
mặt quân sự và chính trị. Bộ Chính trị khẳng định: Cần phải ra sức xây dựng lực
lượng vũ trang đủ mạnh để tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
- Chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đánh thắng chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy
Tháng 11-1959, xứ uỷ Nam Bộ quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương. Nghị quyết 15 đi vào cơ sở giữa lúc quần chúng đang sôi sục cǎm thù Mỹ - Diệm, đã bùng lên thành phong trào đông khởi khắp miền
Dưới ánh sáng chỉ đạo của Nghị quyết Bộ Chính
trị, cách mạng miền Nam
đã phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Một lực lượng lớn được đưa từ miền
Bắc vào cùng lực lượng tại chỗ tạo cho cách mạng miền Nam vững vàng cả về thế và lực. Với
thế và lực đó, với phương hướng tiến lên bằng cả lực lượng chính trị và quân
sự, bằng sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhân dân
ta ở miền Nam đã liên tục tiến công địch, làm phá sản kế hoạch Xtalây Taylơ
nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng (1961-1962) và kế hoạch Giônxơn -
Mắcnamara cùng mục đích trên thực hiện trong hai nǎm (1964-1965). Đây là quá
trình nhân dân miền Nam
đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mỹ - nguy. Những chiến thắng vang dội và có ý
nghĩa bước ngoặt như chiến thắng ấp Bắc (2-1-1963), chiến thắng Bình Giã
(12-1964), chứng tỏ sự trưởng thành toàn diện của lực lượng cách mạng, khẳng
định thế tất thắng của nhân dân ta, mở ra phong trào thi đua diệt nguy, diệt Mỹ
khắp miền Nam. Đến giữa nǎm 1965, quân nguỵ bị đánh tan vỡ từng mảng, ngụy
quyền khủng hoảng triển miên, quốc sách ấp chiến lược bị phá sản, chiến tranh
đặc biệt của Mỹ - ngụy bị thất bại.
- Giữ vững thế thắng, thế tiến công, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh.
- Giữ vững thế thắng, thế tiến công, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh.
Chiến tranh
đặc biệt của đế quốc Mỹ bị đánh bại. Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố theo
đuổi chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đế quốc Mỹ đã leo thang chiến tranh,
tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam và đánh phá miền Bắc bằng không
quân và hải quân ác lệt hơn. Đây là một thử thách quyết liệt có tính chất quyết
định thắng bại với cả hai bên tham chiến. Trước chiều hướng đó, tháng 3-1965, Trung ương
Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11. Trên cơ sở phân tích hết sức khách quan các
yếu tố của cuộc chiến tranh, Hội nghị đã nhận định: Mỹ sẽ mở rộng chiến tranh,
đưa quân vào miền Nam thực hiện chiến tranh cục bộ và tiến hành chiến tranh phá
hoại miền Bắc thường xuyên và ác liệt hơn. Trung ương Đảng hạ quyết tâm: quyết
thắng địch ở mức cao nhất trong chiến tranh đặc biệt ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền
Bắc. Chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch nếu chúng biến chiến tranh ở miền Nam thành chiến tranh cục bộ và kể cả khi chúng
mở rộng chiến tranh cục bộ ra hai miền Nam - Bắc nước ta. Đây là một dự
đoán rất đúng đắn và kịp thời.
Tháng 5-1965, Giônxơn tuyên bố đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miềnNam .
Tháng 9-1965, Bộ Chính trị họp và tháng 12-1965, Trung ương Đảng họp Hội nghị
lần thứ 12 bàn về cách mạng miền Nam đã nhận định: Cuộc chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ ở miền Nam đã từ chiến tranh đặc biệt chuyển thành chiến tranh cục
bộ, song về tính chất và mục đích vẫn là nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.
Hội nghị đã phân tích rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, đề ra phương châm chiến
lược của chiến tranh giải phóng miền Nam và những hình thức, biện pháp cụ thể
để đánh thắng cả lực lượng Mỹ và nguỵ. Một lần nữa, Đảng ta hạ quyết tâm: quyết
chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh. Phải đánh phủ đầu quân
Mỹ ngay khi chúng vừa vào miền Nam .
Tháng 5-1965, khi quân Mỹ gồm đủ các quân binh chủng hùng hổ kéo vào miền Nam thì tại cǎn cứ Núi Thành, một đại đội thuộc
bộ đội tỉnh Quảng Nam
đã tập kích tiêu diệt gọn một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, 180 tên chết và bị
thương. Đây là trận đầu tiên lực lượng vũ trang cách mạng giáp chiến tiêu diệt
gọn một đại đội lính Mỹ ở miền Nam .
Qua trận Núi Thành, ta hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu của quân Mỹ trên thực tế, và
khẳng định ta đánh được Mỹ. Tiếp trận Núi Thành là chiến thắng Vạn Tường,
Plâyme... là những trận phủ đầu nặng nề đối với quân Mỹ. Phong trào thi đua
diệt Mỹ nở rộ khắp miền Nam. Ngay nǎm 1965, nǎm đầu quân Mỹ tham chiến ở miền Nam ,
ta đã tiêu diệt 20 vạn quân Mỹ - ngụy. Khí thế chiến thắng này đã tạo đà cho
quân dân ta ở miền Nam
đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ vào hai mùa khô 1965-1966 và
1966-1967. Với cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966-1967 thì sự cố gắng cùng
sự thất bại của Mỹ đã đến độ cao, bộ mặt xâm lược tàn bạo của chúng đã lộ rõ
trước dư luận thế giới, xã hội Mỹ khủng hoảng sâu sắc, chính giới Mỹ phân hoá
và mâu thuẫn gay gắt. ở miền Nam ,
đế quốc Mỹ lâm vào thế thua, thế bị động và khó khǎn; ngược lại, ta đang ở thế
thắng, thế chủ động và thuận lợi. Tình hình đó cho phép ta chuyển cuộc chiến
tranh cách mạng sang một thời kỳ mới. Quân và dân ta ở miền Nam đã thực hiện bước chuyển đó bằng cuộc tổng
tiến công và nổi dậy đồng loạt khắp nông thôn và thành thị miền Nam
vào đầu Xuân 1968. Đây là đòn quyết định đánh bại chiến tranh cục bộ của đế
quốc Mỹ, buộc chúng phải từng bước xuống thang chiến tranh và đi vào chiều
hướng kết thúc cuộc chiến. Tuy vậy, trong bản anh hùng ca Xuân 1968, Đảng ta
mắc sai lầm chủ quan, nóng vội, muốn kết thúc chiến tranh khi điều kiện chưa
đủ. Bởi vậy, đợt tổng tiến công nổi dậy đầu tiên ta giành thắng lợi vang dội,
nhưng các đợt sau ta bị tổn thất nặng nề, làm chậm lại sự phát triển theo chiều
hướng trên của cuộc chiến mà thắng lợi thuộc về ta đã rõ.
Kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao giành thắng lợi quyết định buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện cái gọi là học thuyết Níchxơn bằng chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh hòng kéo dài chiến tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Chúng đổ tiền của vào cố xây dựng cho được ngụy quyền và ngụy quân làm xương sống cho ViệtNam hoá chiến tranh. Mỹ thực hiện ở
miền Nam
một lúc ba loại chiến tranh: giành dân, bóp nghẹt và huỷ diệt tàn khốc hơn bất
kỳ thời kỳ nào trước đó, đồng thời thực hiện ngoại giao xảo quyệt để cản phá ta
giành thắng lợi hoàn toàn.
Tháng 5-1965, Giônxơn tuyên bố đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền
Kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao giành thắng lợi quyết định buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện cái gọi là học thuyết Níchxơn bằng chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh hòng kéo dài chiến tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Chúng đổ tiền của vào cố xây dựng cho được ngụy quyền và ngụy quân làm xương sống cho Việt
Tháng 1- 1970,
Trung ương Đảng ta họp Hội nghị lần thứ 18, Hội nghị đã phân tích sâu sắc tính
chất thâm độc của chiến lược Việt Nam hoá và những mâu thuẫn không
thể khắc phục được của nó. Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt cho
cách mạng miền Nam là ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị, đẩy mạnh
tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao làm thất bại âm mưu Việt Nam hoá
chiến tranh của đế quốc Mỹ.
Quân và dân ta
đã thực hiện xuất sắc những nhiệm vụ trên và đã giành thắng lợi quyết định. Tận
dụng sai lầm của Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia, tháng 4-1970, Hội nghị
cấp cao Đông Dương đã họp, hình thành mặt trận thống nhất nhân dân Đông Dương
đoàn kết chống Mỹ, củng cố vững chắc thế liên hoàn Đông Dương là một chiến
trường, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ ba nước Đông
Dương chống Mỹ xâm lược. Mặt trận ngoại giao đã chủ động và phối hợp chặt chẽ
với đấu tranh quân sự và chính trị, liên tục tiến công đế quốc Mỹ tại Hội nghị
Pari và trước dư luận toàn thế giới. Mũi tiến công quân sự đã giành thắng lợi
rực rỡ, thực sự làm đòn xeo cho mũi tiến công chính trị và ngoại giao. Nǎm
1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và Campuchia giành thắng lợi lớn ở
XǎmThông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum trên chiến trường Lào và giải phóng phần
lớn đất đai cùng 4,5 triệu dân ở Campuchia, chiến thắng đường số 9 -Nam Lào đã mở
ra khả nǎng thực tế làm thất bại chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của
Níchxơn.
Ngày
30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam với quy mô lớn, cường độ mạnh,
với đủ các binh chủng tác chiến hợp đồng và kéo dài suốt nǎm 1972. Bị thất bại
nặng, Mỹ đã Mỹ hoá trở lại cuộc chiến tranh, thả mìn các cửa sông, cửa biển và
ném bom trở lại miền Bắc, đồng thời thực hiện chính sách ngoại giao xảo quyệt
hòng ngǎn cản thắng lợi của ta. Mỹ lật lọng tại Hội nghị Pari và tháng 12-1972,
chúng mở cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng suốt
12 ngày đêm. Nhưng cũng như ở miền Nam , cuộc tập kích này của Mỹ đã
thất bại nặng nề. Đúng như Đại hội IV của Đảng ta (12-1976) đã nhận định: Thắng
lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược nǎm 1972 và chiến công xuất sắc của
quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B. 52 vào Hà Nội,
Hải Phòng, cuối cùng đã buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam,
rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi nước ta. Ta đã giành thắng lợi quyết
định với đế quốc Mỹ.
- Từ thắng lợi quyết định tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn .
Sau khi thất bại trong trận Điện Biên Phủ trên
không Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố
tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới
của chúng ở miền Nam, biến miền Nam thành một “quốc gia” thân Mỹ, xoá bỏ chính
quyền cách mạng. Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam
chưa có ngừng bắn hoàn toàn, chưa có hoà bình thật sự, Mỹ - ngụy vẫn tiến hành
bình định và lấn chiếm khắp miền Nam .
Tháng 7-1973,
Trung ương Đảng đã kịp thời họp Hội nghị lần thứ 21, phân tích rõ tình hình
trên, âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ - nguỵ. Hội nghị cũng
chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của địch.
Hội nghị nhận
định thế và lực của cách mạng miền Nam hiện mạnh hơn bất cứ thời kỳ
nào kể từ nǎm 1954 đến đó. Nhưng ta cũng còn nhiều mặt cần nhanh chóng khắc
phục, nhất là đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận và xây dựng lực lượng phát
triển chưa đều từ sau Hiệp định Pari. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng miền Nam lúc này là: tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, đánh đổ ngụy quyền, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân
mới của Mỹ.
- Phương pháp cách mạng bạo lực là nhất quán cả quá
trình cách mạng miền Nam đi tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Nghị quyết 21
của Trung ương giúp các đảng bộ miền Nam kịp thời nhận thức và khắc phục
những thiếu sót, lệch lạc từ sau Hiệp định Pari. Nhờ vậy, tình hình chiến
trường miền Nam
có những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Đầu nǎm 1974, về cơ bản ta đã thu
hồi được các vùng giải phóng và vùng tranh chấp bị địch lấn chiếm từ sau Hiệp
định Pari và giải phóng thêm được gần nửa triệu dân. Từ giữa nǎm 1974, những
điều kiện cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam đang chín muồi.
Tháng 10 - 1974, Bộ Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miềnNam trong 2 nǎm (1975-1976). Sau đó
Bộ Chính trị làm việc với các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường
miền Nam .
Tháng 1-1975, Bộ Chính trị nhận định: Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về
quân sự, chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn, thuận lợi như
hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới
hoà bình thống nhất Tổ quốc.
Tháng 10 - 1974, Bộ Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền
Bộ Chính trị và
Quân uỷ Trung ương quyết định lấy chiến trường Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm
chiến trường và điểm mở đầu cho kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ
Chính trị theo dõi chặt chẽ và chỉ đạo kịp thời các bước tiến quân giành thắng
lợi ở các chiến trường miền Nam .
Chiến dịch
giải phóng Tây Nguyên (từ ngày 10 đến 20-3-1975) đã điểm trúng huyệt vào Buôn
Ma Thuột, làm rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược của quân ngụy Sài Gòn,
ngụy quyền hốt hoảng cho rút quân chiến lược khỏi Tây Nguyên, làm rối loạn quân
ngujy. Ta giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên.
Chiến dịch
giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29-3-1975) đã phá tan âm mưu co cụm về
giữ đồng bằng ven biển miền Trung của địch, đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế
suy sụp, tan vỡ không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời cơ tổng tiến công và
nổi dậy vào sào huyệt cuối cùng của địch: Chiến dịch giải phóng Sài Gòn và Nam
Bộ - Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975). 17 giờ ngày 26-4-1975,
nǎm quân đoàn của ta mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định, 11 giờ ngày
30-4-1975, quân ta chiếm dinh tổng thống ngy, buộc ngụy quyền Sài Gòn đầu hàng
vô điều kiện. Sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam của nhân dân ta toàn thắng.
2.6. Sáng tạo nhiều cách đánh, cách thắng
đế quốc Mỹ
2.6.1. BĐánh thắng đế quốc
Mỹ bằng phương pháp cách mạng bạo lực của quần chúng.
Đây là phương
pháp nhất quán của Đảng ta suốt quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Nó không ngừng được bổ sung và hoàn thiện trong quá trình cách mạng.
Nghị quyết 15
của Trung ương đã chỉ rõ: Ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có
con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ, con đường đó là lấy
sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu,
kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân.
Vào bước cuối
cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hội nghị trung ương lần thứ 21 lại
khẳng định: tư tưởng cách mạng bạo lực là thống nhất của cả quá trình cách mạng
miền Nam .
Chiến thắng 30-4-1975 chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của phương pháp cách
mạng bạo lực của Đảng ta.
Bạo lực cách
mạng trong cách mạng Việt Nam
có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, với hai hình thức đấu tranh chính
trị và đấu tranh quân sự và sự kết hợp đấu tranh chính trị với quân sự. Quá
trình thực hiện bạo lực cách mạng, nhân dân ta thể hiện sinh động sự kết hợp
chặt chẽ giữa ý chí giành độc lập dân tộc với phương pháp cách mạng đúng đắn, ý
chí giành cho được độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc là truyền thống thiêng
liêng của cả dân tộc ta, là mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp cách mạng do Đảng
ta lãnh đạo. ý chí đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu khẳng định khi cả
dân tộc đứng lên làm Cách mạng tháng Tám 1945: Dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn
cũng phải giành cho được độc lập, tự do. 21 nǎm sau, khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ ở thời điểm quyết liệt nhất, Người lại nói: Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Để giữ vững và thực hiện được ý chí dó, suốt
21 nǎm lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã vận dụng những giải pháp hết
sức mềm dẻo và khôn khéo về chính trị, quân sự, ngoại giao. Do đó, trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng ta đã giữ vững được tính độc lập sáng tạo về
đường lối cách mạng, đã lãnh đạo tiến hành chiến tranh cách mạng thắng lợi,
đồng thời góp phần cùng nhân dân các nước bảo vệ hoà bình thế giới. Một nước
nhỏ, dân số không đông, kinh tế còn kém phát triển đã liên tục đánh bại các
chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực
dân mới của Mỹ ở Việt Nam .
2.6.2. Từ khởi nghĩa quần
chúng chuyển sang tiến hành chiến tranh cách mạng và kết hợp khởi nghĩa quần
chúng với chiến tranh cách mạng .
Đây là phương pháp nổi bật trong kháng chiến
chống Mỹ của nhân dân ta ở miền Nam
được Đảng ta tổng kết và chỉ ra là hướng đi lên của cách mạng miền Nam
sau Phong trào Đồng khởi (1960). Bằng cách thức đó, lực lượng cách mạng miền Nam đã
đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy, và đã phát triển cao ở các thời kỳ
tiếp theo, thể hiện hết sức phong phú, sinh động trong đấu tranh chính trị,
quân sự và kết hợp giữa hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự. Về sau
lại được kết hợp với hình thức đấu tranh ngoại giao.
2.6.3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sáng ngời chính nghĩa, đó là ưu thế chính trị rất lớn của ta, cũng là điểm yếu cǎn bản của Mỹ - ngụy.
2.6.3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sáng ngời chính nghĩa, đó là ưu thế chính trị rất lớn của ta, cũng là điểm yếu cǎn bản của Mỹ - ngụy.
Đảng và nhân dân ta đã biết phát huy ưu thế
này mà liên tục tiến công địch trên mặt trận chính trị, những “đội quân tóc
dài”, học sinh, sinh viên, giáo phái... đã tiến công chủ nghĩa thực dân mới
bằng chính những luận điệu mị dân của chúng. Đấu tranh chính trị kết hợp chặt
chẽ với đấu tranh ngoại giao đã tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ trước nhân dân
toàn thế giới, hình thành ba tầng mặt trận: trong nước, Đông Dương và thế giới,
cùng tiến công đế quốc Mỹ và bọn tay sai.
Từ thực hiện
chiến tranh cách mạng chống lại chiến tranh thực dân mới, đồng thời cũng là làm
chiến tranh giải phóng, tất yếu phải xây dựng được lực lượng quân sự và đấu
tranh quân sự mạnh. Thực tiễn kháng chiến chống Mỹ cho ta thấy không có lực
lượng quân sự và đấu tranh quân sự mạnh thì khó lòng đẩy mạnh các mặt đấu tranh
chính trị và ngoại giao và không thể có thắng lợi triệt để như mùa Xuân 1975.
2.6.4. Mặt trận ngoại giao của ta đã
phát huy tính chủ động liên tục tiến công địch, đồng thời phối hợp chặt chẽ,
nhịp nhàng với mặt trận chính trị và quân sự tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh
bại kẻ thù. Đây là một nét đặc sắc trong lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của Đảng ta.
- Đánh thắng quân viễn chinh Mỹ bằng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp.
- Đánh thắng quân viễn chinh Mỹ bằng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp.
Phát động
chiến tranh nhân dân chống lại các thế lực xâm lược là truyền thống của dân tộc
ta và cũng là đường lối nhất quán suốt 30 nǎm lãnh đạo chiến tranh của Đảng ta
chống lại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
chiến tranh nhân dân của ta phát triển tới đỉnh cao. Tiến hành cuộc chiến tranh
nhân dân, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ
quân. Nhờ vậy, tuy quân số ta không đông, nhưng lực lượng vũ trang của ta được
huy động và bố trí chiến lược đồng đều và rộng khắp, địch ở đâu cũng có thể bị
tiến công.
- Nét đặc trưng của chiến tranh nhân dân Việt Nam là cách đánh địch không chỉ ở ba thứ quân trong lực lượng vũ trang, mà bất cứ ai từ già đến trẻ đều có thể góp sức mình tiến công giặc, góp phần giải phóng quê hương.
- Nét đặc trưng của chiến tranh nhân dân Việt Nam là cách đánh địch không chỉ ở ba thứ quân trong lực lượng vũ trang, mà bất cứ ai từ già đến trẻ đều có thể góp sức mình tiến công giặc, góp phần giải phóng quê hương.
Cách đánh sở
trường, rộng khắp là đánh du kích. Bằng cách đánh này, mà vũ khí thô sơ của ta
đã nhiều lần làm cho kẻ thù có vũ khí hiện đại phải chấp nhận thất bại. Kết hợp
đánh du kích và đánh chính quy, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các
lực lượng vũ trang và sức mạnh của toàn dân đánh giặc.
Hình thức tác chiến trong chiến tranh nhân dân của ta vô cùng phong phú, đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn và sự kết hợp các quy mô tác chiến đó trong từng chiến dịch một cách linh hoạt và sáng tạo, làm cho kẻ địch không thể lường hết được các mũi tiến công của ta.
Chiến tranh nhân dân của ta tiến công địch cả bằng quân sự, chính trị và binh vận, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức này, nâng cao hiệu quả chiến đấu của ta lên rất cao.
Cả ba vùng miền núi, đồng bằng và đô thị đều có những hình thức tiến công địch phù hợp là nét đặc sắc trong chiến tranh nhân dân của ta. Miền núi lấy tiến công quân sự là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng tiến công cả quân sự và chính trị, và kết hợp hai hình thức đó; ở các đô thị ta tiến công địch bằng chính trị là chủ yếu, đồng thời kết hợp tiến công quân sự với những lực lượng nhỏ, tinh nhuệ vào các sào huyệt của địch đạt hiệu quả chiến đấu cao.
2.7. Tổ chức và chỉ đạo phối hợp chặt chẽ cách mạng hai miền
Đất nước Việt Nam vốn thống nhất, từ kinh tế - xã hội, tiếng nói, tình cảm và truyền thống, cố kết nhau trong một cộng đồng bền vững từ lâu đời mà tồn tại và phát triển. Từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng, khối đoàn kết thống nhất của dân tộc được kế thừa và phát triển , trở thành truyền thống cách mạng.
Hình thức tác chiến trong chiến tranh nhân dân của ta vô cùng phong phú, đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn và sự kết hợp các quy mô tác chiến đó trong từng chiến dịch một cách linh hoạt và sáng tạo, làm cho kẻ địch không thể lường hết được các mũi tiến công của ta.
Chiến tranh nhân dân của ta tiến công địch cả bằng quân sự, chính trị và binh vận, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức này, nâng cao hiệu quả chiến đấu của ta lên rất cao.
Cả ba vùng miền núi, đồng bằng và đô thị đều có những hình thức tiến công địch phù hợp là nét đặc sắc trong chiến tranh nhân dân của ta. Miền núi lấy tiến công quân sự là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng tiến công cả quân sự và chính trị, và kết hợp hai hình thức đó; ở các đô thị ta tiến công địch bằng chính trị là chủ yếu, đồng thời kết hợp tiến công quân sự với những lực lượng nhỏ, tinh nhuệ vào các sào huyệt của địch đạt hiệu quả chiến đấu cao.
2.7. Tổ chức và chỉ đạo phối hợp chặt chẽ cách mạng hai miền
Đất nước Việt Nam vốn thống nhất, từ kinh tế - xã hội, tiếng nói, tình cảm và truyền thống, cố kết nhau trong một cộng đồng bền vững từ lâu đời mà tồn tại và phát triển. Từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng, khối đoàn kết thống nhất của dân tộc được kế thừa và phát triển , trở thành truyền thống cách mạng.
Vào thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuy mỗi miền có nhiệm vụ cụ thể khác nhau, nhưng
đều có chung một mục tiêu là hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhiệm vụ
cách mạng hai miền có mối quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy lẫn nhau. Trên cơ sở đó,
Đảng ta đã tổ chức, chỉ đạo sự kết hợp chặt chẽ cách mạng hai miền Nam -
Bắc trên nhiều mặt từ chiến lược, sách lược và những nội dung cụ thể.
Kết hợp về chiến lược, Đại hội III của Đảng ta đã xác định: Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta. Cách mạng miềnNam có một vị trí rất quan trọng.
Nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước. Và cách mạng hai miền cùng có một mục tiêu chung là thực hiện thống nhất
nước nhà, cho nên quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau
cùng phát triển.
Miền Bắc là hậu phương của tiền tuyến miền Nam, là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi.
Kết hợp về chiến lược, Đại hội III của Đảng ta đã xác định: Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta. Cách mạng miền
Miền Bắc là hậu phương của tiền tuyến miền Nam, là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi.
Vì vậy, bất kể
trong tình huống nào, hoà bình hay không có hoà bình, hoặc vừa có hoà bình vừa
có chiến tranh, thì nhân dân ta vẫn quyết tâm xây dựng miền Bắc vững mạnh về
mọi mặt. Cách mạng miền Nam
còn có vai trò tích cực bảo vệ miền Bắc. Đồng bào miền Nam nói: Mỹ đánh miền Bắc một, chúng ta đánh Mỹ
gấp mười ở miền Nam .
Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong sự kết hợp giữa hậu phương và tiền tuyến, mỗi
đòn tấn công mạnh của quân dân ta ở miền Nam có tác dụng trực tiếp đánh bại
cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ.
Xây dựng lực lượng và tổ chức chiến đấu là lĩnh vực kết hợp phong phú nhất của cách mạng hai miền. Miền Bắc bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời với chất lượng tốt nhất về lực lượng vũ trang, vũ khí, trang bị và mọi nhu cầu thiết yếu cho tiền tuyến miềnNam .
Cách mạng miền Nam bên cạnh nhiệm vụ xây dựng lực lượng tại chỗ, đồng thời phải
tổ chức, chuẩn bị địa bàn tiếp nhận lực lượng từ miền Bắc chi viện và bảo đảm
sự chi viện đó phát huy hiệu quả cao nhất. Trong chiến đấu, cách mạng miền Nam có nhiệm vụ kiềm chế và thắng Mỹ ngay tại
chiến trường miền Nam .
Thực hiện tốt nhiệm vụ đó, đồng bào ta ở miền Nam đã góp phần tích cực bảo vệ
miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đồng bào ta ở miền Bắc vì miền Nam ruột thịt, mỗi người làm việc
bằng hai, vừa sản xuất giỏi vừa chiến đấu giỏi.
Xây dựng lực lượng và tổ chức chiến đấu là lĩnh vực kết hợp phong phú nhất của cách mạng hai miền. Miền Bắc bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời với chất lượng tốt nhất về lực lượng vũ trang, vũ khí, trang bị và mọi nhu cầu thiết yếu cho tiền tuyến miền
2.8. Đoàn kết và
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế cao nhất
- Đoàn kết quốc tế là tư tưởng chiến lược nhất quán và sách lược khôn khéo của Đảng ta.
- Đoàn kết quốc tế là tư tưởng chiến lược nhất quán và sách lược khôn khéo của Đảng ta.
Ngay từ khi ra
đời, Đảng ta đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới. Tại Hội nghị thành lập Đảng, trong Sách lược vắn tắt của Đảng đã
khẳng định: Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, lại phải
đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai
cấp thế giới . Tư tưởng này là cơ sở cho sự phát triển chính sách đoàn kết quốc
tế của Đảng ta. Chính sách đó luôn được bổ sung, hoàn thiện và là một nguồn
tǎng thêm sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn có của ta, là một nhân tố thắng lợi của
cách mạng Việt Nam .
Nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Cách mạng thế giới ở thế tiến công. Chủ nghĩa đế quốc lâm vào tổng khủng hoảng. Các đế quốc bị kiệt quệ sau chiến tranh. Riêng đế quốc Mỹ trở thành giàu nhất và mạnh nhất về kinh tế, tài chính, quân sự và trở thành kẻ thù chung của các dân tộc trên thế giới.
Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt ở một số nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện tư tưởng hoà bình chủ nghĩa và chủ nghĩa cơ hội mang màu sắc dân tộc. Trong tình hình đó, chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta nhằm đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta vào thế tiến công chung của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đồng thời cùng nhân dân thế giới đấu tranh giữ vững hoà bình.
Chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta lúc này là: tiếp tục tǎng cường sự đoàn kết nhất trí giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa khác, củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta với các nước anh em, đồng thời góp phần tǎng cường sự thống nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống lại chính sách xâm lược và chiến tranh của đế quốc Mỹ. Ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu á, châu Phi và châu Mỹ latinh. Với các nước, chúng ta xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đi đôi với việc xây dựng và tǎng cường quan hệ giữa các chính phủ, cần mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước.
Nhờ có chính sách đoàn kết quốc tế đúng đắn lại có sách lược khôn khéo nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta đã giành được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ cả về tinh thần và vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hoà bình, các tổ chức quốc tế và nhiều cá nhân có tên tuổi ở nhiều nước trên khắp thế giới. Đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần đưa sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi.
Nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Cách mạng thế giới ở thế tiến công. Chủ nghĩa đế quốc lâm vào tổng khủng hoảng. Các đế quốc bị kiệt quệ sau chiến tranh. Riêng đế quốc Mỹ trở thành giàu nhất và mạnh nhất về kinh tế, tài chính, quân sự và trở thành kẻ thù chung của các dân tộc trên thế giới.
Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt ở một số nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện tư tưởng hoà bình chủ nghĩa và chủ nghĩa cơ hội mang màu sắc dân tộc. Trong tình hình đó, chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta nhằm đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta vào thế tiến công chung của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đồng thời cùng nhân dân thế giới đấu tranh giữ vững hoà bình.
Chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta lúc này là: tiếp tục tǎng cường sự đoàn kết nhất trí giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa khác, củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta với các nước anh em, đồng thời góp phần tǎng cường sự thống nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống lại chính sách xâm lược và chiến tranh của đế quốc Mỹ. Ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu á, châu Phi và châu Mỹ latinh. Với các nước, chúng ta xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đi đôi với việc xây dựng và tǎng cường quan hệ giữa các chính phủ, cần mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước.
Nhờ có chính sách đoàn kết quốc tế đúng đắn lại có sách lược khôn khéo nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta đã giành được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ cả về tinh thần và vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hoà bình, các tổ chức quốc tế và nhiều cá nhân có tên tuổi ở nhiều nước trên khắp thế giới. Đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần đưa sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi.
Trong chính
sách đoàn kết quốc tế của mình. Đảng ta đặc biệt chú ý xây dựng và củng cố khối
đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Trên thực
tế, ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã hình thành mặt trận chung chống đế
quốc Mỹ xâm lược, phối hợp chặt chẽ trong chiến đấu. Đông Dương thành một chiến
trường, cùng chiến đấu và cùng chiến thắng đế
quốc Mỹ.
Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản
cách mạng nên có mâu thuẫn với cả thế giới, là kẻ thù chung của nhân dân thế
giới. Đó là một cơ sở để nhân dân ta thực hiện trên thực tế mặt trận nhân dân
toàn thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Chưa
bao giờ nhân dân thế giới đến với nhân dân ta nhiều và mạnh mẽ như thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân ta đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận đông đảo, rộng khắp, sôi nổi ở trong nước, trên bán đảo Đông Dương và trên toàn thế giới, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ, kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta và cũng là kẻ thù chung của nhân dân thế giới. Sự giúp đỡ về vật chất của bạn bè trên thế giới là cực kỳ to lớn. Nhân dân ta đã sử dụng vũ khí, trang bị và các phương tiện chiến tranh của các nước anh em và bạn bè giúp đỡ với hiệu quả cao.
Đảng ta xác định:Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế, kể cả nhân dân Mỹ. Thực tiễn đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược đã làm sáng tỏ phương châm đó.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân ta đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận đông đảo, rộng khắp, sôi nổi ở trong nước, trên bán đảo Đông Dương và trên toàn thế giới, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ, kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta và cũng là kẻ thù chung của nhân dân thế giới. Sự giúp đỡ về vật chất của bạn bè trên thế giới là cực kỳ to lớn. Nhân dân ta đã sử dụng vũ khí, trang bị và các phương tiện chiến tranh của các nước anh em và bạn bè giúp đỡ với hiệu quả cao.
Đảng ta xác định:Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế, kể cả nhân dân Mỹ. Thực tiễn đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược đã làm sáng tỏ phương châm đó.
3. Kết luận
Như vậy, sau 21 năm trực tiếp đương đầu với chủ
nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ, là 21 năm kháng chiến cực kì gian khổ và
oanh liệt dân tộc ta đã thắng đế quốc Mỹ bằng những bằng cả sức mạnh của toàn dân
tộc, bằng cách đánh, những nghệ thuật mà không một nơi nào có được, lớp học là
chiến trường và những yếu tố khác (như trên). Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
đã thực hiện được nguyện vọng thiêng liêng là hoàn thành độc lập thống nhất đất
nước và nó đã để lại những bài học kinh nghiệm quí báu góp phần làm giàu thêm
kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam .
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Don Oberdoifer,
1988,Teát, Nxb Toång hôïp An Giang, An Giang.
2.
A.Amtơ, 1985, Lời phán quyết về Việt Nam,
NXBCAND
3. Mai Văn Bộ, 1985, Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật,
NXBTPHCM
4. Leâ
Duaãn, 1985, Thö vaøo Nam, Nxb Söï Thaät, Haø Noäi.
5. Nguyễn Phú Đức, 2009, Tại sao Mĩ thua ở Việt Nam , NXB lao động
6. Goerge
C.Herring, 2004, Cuộc chiến dài ngày của nước Mĩ và Việt Nam (1950 –
1975), NXBCAND
7. Gabriel
Kolko,2003, Giaûi phaãu moät cuoäc chieán tranh, Nxb QÑND, HN.
8. Henry
Alfred Kissinger, Vaán ñeà Vieät Nam, Phaïm Vuõ Döông dòch.
9. Hoà
Khang, 1998, Teát Maäu Thaân 1968 taïi
mieàn Nam Vieät Nam, Nxb QÑND, HN.
10. Hồ Sỹ Khoách, 1998, Lịch sử Việt Nam 1945 – 1975, NXB Mũi Cà
Mau
11. Trần Trọng Trung,
2005, Nhà Trắng với cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam, NXBCTQG.
12. Pi
– tô A. Pu – lô, Nöôùc
Mó vaø Ñoâng Döông töø Ru – dô – ven ñeán Ních – xôn, Nxb Thoâng tin lí luaän, Hn,
1986.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét