Lê Ngọc Tòng*
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản
đang đóng vai trò chi phối quá trình toàn cầu hóa. Với cách mạng khoa học -
công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin và viễn thông, quá trình này ngày càng
phát triển mạnh mẽ về chiều rộng cũng như về chiều sâu bằng tốc độ rất nhanh.
Hiện tại toàn cầu hóa đã bộc lộ những mặt tích cực và tiêu cực. Điều này thể
hiện rõ qua sự tác động của nó đối với các nước đang phát triển.
Trước hết, toàn cầu hóa
đem lại cơ hội lớn và có những tác động tích cực đối với các nước đang phát
triển.
1. Thúc đẩy mạnh mẽ lực lượng sản xuất
Toàn cầu hóa, trước hết là
toàn cầu hóa về kinh tế, bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ
tính chất xã hội hóa của sản xuất trên phạm vi quốc tế. Trước đây, khi phân
tích về quá trình quốc tế hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác và Ph. Ăng -
ghen đã vạch rõ : "Vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ
sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi,
trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi... Do bóp nặn thị
trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả
các nước mang tính chất thế giới..." (1).
Điều này có nghĩa là từ sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, cùng với sự thôi thúc của động lực đạt lợi nhuận cao của giai cấp tư
sản, xu thế toàn cầu hóa đã xuất hiện. Khi đã xuất hiện, nó tác động trở lại
làm cho lực lượng sản xuất trên thế giới nói chung và ở các nước đang phát
triển nói riêng có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, thực tế xã hội tiếp
tục khẳng định tính đúng đắn của những quan điểm trên của C. Mác và Ph.
Ăng-ghen trong điều kiện mới.
Với mục tiêu giành lợi
nhuận tối đa, thông qua các mối liên hệ quốc tế rộng rãi do toàn cầu hóa đưa
lại, các nước phát triển đang tìm cách đầu tư vào các nước đang phát triển.
Ngược lại, để đưa đất nước tiến nhanh, các nước đang phát triển cũng có nhu cầu
thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn từ nước ngoài. Sự gặp gỡ của hai nhu cầu này
làm cho dòng chảy về vốn, công nghệ, dịch vụ từ các nước phát triển chuyển vào
các nước đang phát triển ngày càng tăng. Chẳng hạn, tính theo tỷ lệ GDP, luồng
vốn thâm nhập vào các nước đang phát triển trong 10 năm từ 1986 đến 1996 đã
tăng khoảng 2 lần... Riêng Trung Quốc, trong 3 năm 1993 - 1995 đã nhận được 110
tỉ USD, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 20% tổng đầu tư của
cả nước. FDI cung cấp 34,7% đầu tư cho hàng xuất khẩu và 28,7% đầu tư cho công
nghiệp của Trung Quốc năm 1994... Thực tế này cũng cho thấy, những nước đang
phát triển bứt lên được về kinh tế là những nước đã tận dụng được các cơ hội và
thu hút được những khoản FDI lớn nhất.
Để sử dụng nguồn vốn có
hiệu quả, bắt buộc các nước đang phát triển phải nâng cao trình độ về mọi mặt,
đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tăng năng suất lao động. Tất cả những điều đó đưa đến một kết quả
là : các nước phát triển thì ngày càng giàu có, còn các nước đang phát triển
cũng phát triển mạnh mẽ về lực lượng sản xuất. Sự phát triển của các nước NICs,
đặc biệt là những "con rồng" châu Á trong mấy thập kỷ qua đã chứng
minh điều đó.
2. Khai thác mọi nguồn lực trong và ngoài nước, đẩy mạnh sự
phát triển, dần dần thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến
Toàn cầu hóa làm cho thị
trường mỗi quốc gia được mở rộng ra phạm vi quốc tế, nhờ đó quan hệ mua bán
hàng hóa và dịch vụ được tăng lên nhanh chóng. Thông qua thị trường mở cửa, các
quốc gia có thể trao đổi những thành tựu mới của khoa học - công nghệ hiện đại,
làm cho nền khoa học - kỹ thuật và sản xuất trong nước phát triển mạnh mẽ. Các
nước đang phát triển nói riêng cũng có điều kiện khai thác tối đa những thế
mạnh của đất nước, dân tộc ; tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế
theo hướng chuyên môn hóa để thu lợi nhuận cao, hình thành cơ cấu kinh tế hiện
đại, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước ; đồng thời thu hút những gì
cần thiết và có lợi từ bên ngoài, phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Trong quá trình mở cửa,
hội nhập, nếu các nước đang phát triển có đường lối, chính sách đúng đắn, phù
hợp và biết khai thác mặt tích cực của toàn cầu hóa, tranh thủ lợi thế so sánh
riêng, tận dụng cơ hội thu hút được nguồn đầu tư lớn và các nguồn lợi khác của
thế giới, thì sẽ tạo được sự phát triển với tốc độ nhanh. Ngày nay, nhờ xu thế
toàn cầu hóa, với chính sách tăng cường mở cửa, hội nhập của nhiều quốc gia,
các nước đang phát triển còn có thể lựa chọn, ứng dụng các thành tựu khoa học -
kỹ thuật và dây chuyền công nghệ tiên tiến để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, nâng cao năng lực của nền kinh tế nhờ phương thức đi tắt, đón đầu các
thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất. Chính bằng cách đó, một số nước đang
phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Xin-ga-po, Thái Lan... đã tạo được sự phát
triển nhanh, bền vững và liên tục, đem lại sự thay đổi lớn lao cho đất nước,
thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch, từng bước tiến kịp các nước tiên tiến.
3. Gìn giữ hòa bình, ổn định để phát triển
Toàn cầu hóa đã tạo ra sự
gắn bó hữu cơ, sự liên kết, hợp tác, sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau về nhiều
mặt giữa các quốc gia trong quá trình mở cửa, hội nhập. Chính trong môi trường
liên kết, hợp tác đó, các quốc gia có điều kiện hiểu biết và gần gũi nhau hơn.
Nhờ không khí ngày càng thân thiện do lợi ích của tất cả các bên trong quá
trình liên kết, hợp tác tạo ra, toàn cầu hóa đã đem lại khả năng thuận lợi cho
việc giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển ở tất cả mọi nước. Không có hòa
bình và ổn định sẽ không có bất kỳ một sự phát triển nào. Ngày nay, xu thế hòa
bình, hợp tác để phát triển trở thành xu thế chủ đạo của quan hệ quốc tế. Sự
thăng hoa của xu thế này là một yếu tố quan trọng làm cho quá trình toàn cầu
hóa tiến triển thuận lợi.
Những cơ hội mà toàn cầu hóa
tạo ra cho các nước đang phát triển là khách quan và rất to lớn. Song, đó mới
chỉ là khả năng. Khả năng này có biến thành hiện thực hay không, hoặc được hiện
thực hóa tới mức nào, điều đó còn tùy thuộc vào nhân tố chủ quan về năng lực
nhận thức và hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia cụ thể. Không phải có cơ hội
thuận lợi, thì nước nào cũng có thể phát triển được.
Ngoài những "cơ
hội", toàn cầu hóa đồng thời còn đặt ra các thách thức không nhỏ trước các
nước đang phát triển.
1. Mâu thuẫn và cạnh tranh quốc tế quyết liệt, nguy cơ tụt
hậu gay gắt
Toàn cầu hóa là quá trình
vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các thành viên tham gia, chủ yếu là giữa các
nước đang phát triển và chậm phát triển với các nước phát triển (đứng đầu là
Mỹ). Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa là tham gia vào việc định ra và thực
hiện "luật chơi chung". Để đảm bảo cho các nước đều có lợi ích trong
mở cửa, hội nhập, đòi hỏi các bên tham gia phải hợp tác với nhau. Do có ưu thế
về vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý và thực lực chi phối thị
trường thế giới trong quá trình toàn cầu hóa, các nước phát triển luôn nắm
quyền quy định và khống chế những luật chơi chung có lợi cho họ. Mặc dù
"luật chơi" có vẻ "công bằng", nhưng thực chất chúng luôn
đem lại lợi thế cho những kẻ mạnh (các nước tư bản phát triển và các công ty
siêu quốc gia). Các nước đang phát triển, các nước nghèo thường phải gánh chịu
những điều bất lợi, thiệt thòi về phía mình. Trong quá trình toàn cầu hóa, để
thu được nhiều lợi ích, các nước phát triển luôn tìm mọi cách chèn ép các nước
đang phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về kinh tế, các nước phát
triển dùng sức mạnh để ép các nước đang phát triển phải chấp nhận những điều
khoản có lợi cho mình, tạo nên những bất lợi cho các nước đang phát triển,
khiến các nước này phải lệ thuộc về kinh tế ngày càng nhiều.
Về chính trị, thông qua
toàn cầu hóa các nước phát triển cũng buộc các nước đang phát triển phải lệ
thuộc vào họ. Việc Mỹ và NATO buộc Nam Tư phải từ bỏ chủ quyền để đổi lấy khoản
viện trợ tài chính, việc Mỹ thực hiện chính sách cấm vận đối với Cu-ba và một
số nước khác minh chứng rõ ràng cho điều đó.
Toàn cầu hóa đã tạo ra mâu
thuẫn gay gắt giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển trong quá
trình mở cửa, hội nhập. Không những thế, quá trình toàn cầu hóa còn đặt các
nước đang phát triển trước thách thức của sự cạnh tranh quyết liệt. Tham gia
vào quá trình toàn cầu hóa là tham gia vào thị trường thế giới. Đặc trưng cơ
bản của thị trường là cạnh tranh. Cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa điều tiết
nền kinh tế theo qui luật "cá lớn nuốt cá bé", "mạnh được, yếu
thua", "kẻ nhanh sẽ chiếm phần người chậm, kẻ mạnh chèn ép kẻ
yếu"... Để tồn tại và phát triển, các nước đang phát triển phải tìm cách
đổi mới về đường lối phát triển kinh tế, đổi mới cơ chế hoạt động, không ngừng
nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật, tổ chức - quản lý và công nghệ hiện đại
cho phù hợp với điều kiện hội nhập. Nếu không làm được điều đó thì quá trình
toàn cầu hóa sẽ đẩy các nước đang phát triển tới nguy cơ ngày càng lệ thuộc,
mất dần tính độc lập tự chủ, từng bước trở thành bãi thải công nghệ cho các
nước phát triển, làm cho đất nước tụt hậu ngày càng xa. Những doanh nghiệp của
các nước này nếu không nâng cao trình độ về mọi mặt, tăng cường sức cạnh tranh,
sẽ có nguy cơ phá sản và bị thôn tính. Quá trình toàn cầu hóa thực sự đặt các
nước đang phát triển trước một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Ở đây, thị trường
cũng không kém phần khốc liệt hơn chiến trường.
2. Phân hóa giàu nghèo giữa các quốc gia và trong nội bộ mỗi
quốc gia
Toàn cầu hóa phân phối
không đều lợi ích và cơ hội phát triển cho các quốc gia. Do có tiềm lực kinh tế
áp đảo và có ưu thế về nhiều mặt, các nước phát triển đang nắm vị trí chủ đạo
trong quan hệ phân công quốc tế và trong tiến trình toàn cầu hóa. Họ luôn tìm
cách giành lấy những lợi thế kinh tế về phía mình, đẩy những bất lợi về phía
các nước đang phát triển. Chính điều đó đã tạo ra sự phân phối lợi ích không
đều, làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo giữa các nước và ngay trong nội bộ mỗi
nước. Thực tế cho thấy, nếu như toàn cầu hóa đem lại cho các nước phát triển
những nguồn lợi khổng lồ và tăng nhanh sự giàu có của họ một cách vô độ, thì nó
cũng làm cho nhiều nước đang phát triển ngày càng tụt hậu và phần lớn dân chúng
trên thế giới ngày càng nghèo đi.
"Báo cáo về phát
triển con người" năm 1999 của Liên hợp quốc đã chỉ rõ : Các nước phát
triển với số dân khoảng 1,2 tỉ người, chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chiếm 86%
GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp nước ngoài và
khống chế 75% đường dây điện thoại thế giới. Trong khi đó các nước nghèo cũng
chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 1% mỗi lĩnh vực trên. Toàn cầu hóa
làm cho sự phân hóa giàu nghèo giữa người với người ngày càng tăng : Sự chênh
lệch thu nhập của 20% người giàu nhất thế giới và 20% người nghèo nhất thế giới
năm 1960 là 30/1, đến năm 1990 là 60/1 và năm 1997 là 74/1. Đại hội đặc biệt
của Liên hợp quốc ở Giơ-ne-vơ tháng 6-2001 cũng chỉ ra rằng : Chênh lệch về thu
nhập bình quân đầu người của nước giàu nhất (Thụy Sĩ, 40 800 đô-la) so với nước
nghèo nhất (Ê-ti-ô-pi, 100 đô-la) hiện nay là 408 lần, trong khi hồi đầu thế kỷ
XX mới là không quá 10 lần. Tài sản của 3 người giàu nhất thế giới nhiều hơn
tổng giá trị tài sản quốc dân của 60 nước nghèo.
Không những thế, toàn cầu
hóa cũng gây ra sự phân phối không công bằng trong nội bộ mỗi quốc gia. Ngay
tại Mỹ, vẫn còn 12% số dân, phải sống dưới mức nghèo khổ.
3. Nguy cơ làm mất dần bản sắc văn hóa dân tộc
Quá trình toàn cầu hóa làm
tăng giao lưu quốc tế và tính đồng nhất trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội. Giống như toàn cầu hóa kinh tế, toàn cầu hóa văn hóa cũng tác động cả tích
cực và tiêu cực đến mọi nước tham gia quá trình hội nhập. Văn hóa của các nước
phát triển sẽ ảnh hưởng mạnh đến văn hóa các nước đang phát triển. Điều quan
trọng là mỗi nước biết chủ động đón nhận nó để có những đối sách thích hợp nhằm
phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt tiêu cực trong quá trình hội
nhập.
Quá trình toàn cầu hóa, sự
nối mạng thông tin toàn cầu tạo điều kiện cho việc du nhập những tư tưởng và
lối sống lai căng, thiếu lành mạnh, thoát ly bản sắc dân tộc. Nhiều giá trị văn
hóa riêng của các nước đang phát triển bị xói mòn và mất dần ảnh hưởng, thay
vào đó là sự chấp nhận những "giá trị chung". Nền văn hóa dân tộc bị
tấn công, gặm nhấm, bị "đồng hóa" bởi văn hóa bên ngoài. Chưa bao giờ
ở các nước đang phát triển, những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc lại
phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ, gay gắt như thời kỳ này. Nhiều tệ nạn
xã hội như cờ bạc, ma túy, mại dâm, buôn lậu, ma-phi-a, bạo lực, gian lận
thương mại... phát triển như các đại dịch thời Trung cổ. Tại nhiều nơi, nhất là
các thành phố, thị xã, thị tứ đã xuất hiện khá phổ biến lối sống thực dụng,
chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ những giá
trị lý tưởng, đạo đức của cha ông... Nhiều sinh hoạt văn hóa như lễ hội, biểu
diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu thương mại hóa. Có thể nói, đây là "một cuộc
xâm lăng văn hóa" của các nước phát triển đang diễn ra trên khắp hang cùng
ngõ hẻm các nước đang phát triển.
Trong quá trình hội nhập,
các nước đang phát triển cần chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những giá trị văn hóa
tiên tiến của nhân loại để phát triển. Nhưng đồng thời họ cũng phải biết bảo
tồn, phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc. Phải tìm trong chính
mình sức mạnh nội sinh để đứng vững trước thử thách của toàn cầu hóa. Nếu để
mất bản sắc văn hóa dân tộc, thì dĩ nhiên là không thể chấp nhận được. Song
việc đề cao văn hóa dân tộc thái quá và tràn lan lại có nguy cơ đưa đến tình
trạng bài ngoại, đóng cửa, làm cho đất nước bị tụt hậu ngày càng xa so với các
nước phát triển. Rõ ràng, toàn cầu hóa thật sự đặt ra những thách thức gay gắt
cho văn hóa dân tộc.
Những thách thức mà toàn
cầu hóa đặt ra cho các nước đang phát triển là rất lớn. Bứt phá vươn lên để
phát triển hay khoanh tay chấp nhận tụt hậu, điều đó tùy thuộc vào ý chí, nghị
lực phấn đấu của mỗi quốc gia. Thực tiễn sẽ cho lời giải đáp chính xác nhất về
tính đúng đắn của con đường phát triển mà mỗi quốc gia đã lựa chọn.
* TS, Phó
Vụ trưởng Vụ Quản lý khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(1) C. Mác
- Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, t 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 601
http://203.162.0.19:8080/show_content.pl?topic=5&ID=552
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét