Chào mừng đến với Blogger !!!

31 tháng 5, 2012

THÁI ĐỘ, TRÁCH NHIỆM CỦA TRIỀU NGUYỄN TRONG VIỆC ĐỂ NƯỚC TA RƠI VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP CUỐI THẾ KỈ XIX


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
            1. Lí do chọn đề tài
            2.  Tổng quan tình hình nghiên cứu
            3.  Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
            4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
            5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
            6. Những đóng góp mới của đề tài
            7. Bố cục của đề tài
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Bối cảnh nước ta trước khi thực dân Pháp xâm lược (nữa đầu thế kỉ XIX)
                   1.1 Tình hình thế giới
                                    Âm mưu xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta………...
                        1.2 Tình hình trong nước
                                    1.2.1 Tình hình kinh tế …………………………………………
                                    1.2.2 Tình hình chính trị ………………………………………
                                    1.2.3 Tình hình văn hóa – xã hội……………………………….
CHƯƠNG 2: Thái độ, trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp (1858-1884)
                        2.1 Thái độ
                                    2.1.1 Khi Pháp nổ súng mở đầu xâm lược nước ta 1858 ………
                                    2.1.2 Trong công cuộc canh tân đất nước ……………………...
                                    2.1.3 Khi kí kết các hiệp ước đầu hàng cuối cùng nước ta rơi vào tay Pháp 1884 ……………………………………………………………………
                        2.2 Trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay của thực dân Pháp ……………………………………………………………………
C. PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………..

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
            Lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX, trãi qua nhiều biến động, chứa đựng nhiều nội dung đang xen phức tạp đòi hỏi công tác nghiên cứu cần phải thận trọng và thật sự khách quan
            Nếu như trước đây, do hạn chế bởi quan điểm, chúng ta đã đánh giá có phần chủ quan về triều Nguyễn, ví như triều Nguyễn bán nước, triều Nguyễn phải chiệu mọi trách nhiệm trong việc đề mất nước,… Thời gian gần đây, các nhà sử học đã có những nhận định khách quan hơn về triều Nguyễn qua một số công trình nghiên cứu như: kỉ yếu hội thảo triều Nguyễn,…
            Đứng trước những bất ổn về kinh tế xã hội cùa đất nước lúc bấy giờ, đặt biệt là nạn ngoại xâm đang đến gần, vậy thái độ của triều Nguyển ra sao để giải quyết những bất ổn của đất nước? rồi nhà Nguyễn có thái độ như thế nào khi Nguyễn Trường Tộ dâng lên bản điều trần với mong muốn canh tân đất nước? và thái độ của nhà Nguyễn như thế nào khi chấp nhận kí các hiệp ước đầu hàng để rồi nước ta rơi hoàn toàn vào tay Pháp?...Đúng là có hàng loạt câu hỏi được đăt ra và đòi hỏi phải giải quyết.
            Mặt dù đã có nhiều công trình nghiên cứu khác có liên quan như: Góp phần tìm hiểu về tư tưởng canh tân dưới triều Nguyễn hay vị trí của triều Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam,… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều nội dung chưa được làm rõ. Đặc biệt là thái độ, trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX. Trên đây là những thắc mắc mà bản thân tác giả nghiên cứu thiết nghĩ rằng, cần phải giải đáp thỏa đáng, và cũng là nguyên nhân thôi thúc chúng tôi chọn đề tài “ Thái độ, trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX” để nghiên cứu với mong muốn làm sáng tỏa những thắc mắc đã nêu trên, đồng thời rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báo trong công cuộc đổi mới, nhất là đổi mới về tư duy nhận thức, thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay của Đảng và Nhà nước ta.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
            Hiện nay, việc nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung, thái độ và trách nhiệm  của triều Nguyễn nói riêng đang được sự quan tâm của các nhà khoa học. Mỗi tác giả, tác phẩm nghiên cứu đều đứng ở gốc độ khác nhau thậm chí có nhiều ý kiến còn trái ngược nhau.
            Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã tham khảo và kế thừa một số tác phẩm tiêu biểu sau:
            Tác phẩm có giá trị khoa học là “ Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở trường Đại học, Cao đẳng, phổ thông”, xuất bản năm 2002. Tác phẩm đã tập hợp hơn 100 bài của các nhà nghiên cứu và giáo dục lịch sử viết về triều Nguyễn, nêu lên những vấn đề chung về nghiên cứu và dạy học lịch sử thời Nguyễn. Và đặc biệt là các bài viết tập trung nghiên cứu về triều Nguyễn trên các lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục,…Qua đó, giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về triều Nguyễn.
            Tác phẩm “ tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn” Nhà xuất bản Thuận Hóa, đã giới thiệu những nhà canh tân tiến bộ. Qua đó, giúp chúng ta có những nhận xét về triều Nguyễn trước nhu cầu canh tân đất nước.
            Bên cạnh đó, Tác phẩm “ Lịch sử Việt Nam” tập II của ủy ban khoa học xã hội Việt Nam đã giành hẳn chương I để phân tích tình hình “ Nước Việt Nam trước khi bị chủ nghĩa thực dân Pháp xâm chiếm”. Qua đó tìm được những nguyên nhân xã hội, kinh tế, chính trị dẫn tới việc mất nước. Tuy nhiên, ở đây có những nhận định hơi “ cứng”, quá nhấn mạnh mặt tiêu cực, như “ nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến chuyên chế, không còn khả năng mở mang kinh tế và phát huy được tiềm lực nhân dân trong xây dựng đất nước” . Thực ra, như nhiều nhà nghiên cứu đã xác nhận, các vua đầu triều Nguyễn cũng có ý thức và khả năng phát triển kinh tế, cũng mong muốn canh tân đất nước và trình độ xã hội Việt Nam nữa đầu thế kỷ XIX cũng có thể xếp vào loại hàng đầu trong số các nước  phương Đông.  Như vậy, nước ta không phải không có khả năng đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ
Tổ Quốc như các triều đại trước đã từng làm. Điều này càng làm rõ hơn trách nhiệm của triều đình Huế trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp. Và cũng hiển nhiên rằng quá trình xâm lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây nói chung và Pháp nói riêng từ giữa thế kỷ XIX có thể coi là tất yếu, song việc mất nước ta vào tay thực dân Pháp lúc bấy giờ quyết không phảỉ là tất yếu.
Các tác giả “ Đại cương lịch sử Việt Nam” (Toàn tập) đã trình bày và phân tích rất chi tiết, đầy đủ tình hình “ Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX thời Nguyễn” trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và đi đến kết luận rằng các vua triều Nguyễn cúng có những biện pháp tích cực để phát triển đất nước. Song do chính sách bảo thủ, phản động nên “ nhanh chóng cấu kết với bọn cướp nước để làm tay sai cho chúng, đàn áp, bóc lột nhân dân cả nước” . Trên cơ sở ấy, các tác giả “ Đại cương lịch sử VIệt Nam” đã có một phán xét công bằng: “ Đó là tội lớn của phong kiến nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử. Nhưng tất nhiên, khi khẳng định “ tội” của nhà Nguyễn trong việc để mất nước ta vào tay thực dân Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX, chúng ta không hề quên những đóng góp của họ về các mặt phát triển giáo dục, văn hóa, nghệ thuật và một số thành tựu đến ngày nay và là tà sản quý của dân tộc”
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
            Tái dựng lại bức tranh về chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn, qua đó xác định được thái độ và trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX.
            Đề tài làm rõ tình hình nước ta dưới triều Nguyễn thông quá một số chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội,… để đánh giá một cách khách quan, chính xác về các chính sách đó và thấy được những biểu hiện của triều Nguyễn khi Pháp đã tiến hành xâm lược nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
            Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về thái độ và trách nhiệm của triều Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
            Đề tài sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, trong qua trình nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, sưu tầm và xử lí tài liệu.
            Chúng tôi đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu của mình.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ giúp cho việc học tập, nghiên cứu triều Nguyễn và nhất là thái độ, trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, sẽ có tính thống nhất, chiều sâu hơn và khách quan hơn.
7. Bố cục của đề tài
            Ngoài phần mở đầu, kết luận, phục lục, tài liệu tham khảo,đề tài còn có hai chương
            CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH NƯỚC TA TRƯỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
            CHƯƠNG 2: THÁI ĐỘ, TRÁCH NHIỆM CỦA TRIỀU NGUYỄN TRONG VIỆC ĐỂ NƯỚC TA RƠI VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP CUỐI THẾ KỶ XIX

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH NƯỚC TA TRƯỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC ( NỮA ĐẦU THẾ KỶ XIX)
1.1 Tình hình thế giới
Âm mưu xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta
            Bước sang thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương tây đã phát triển mạnh trên phạm vi thế giới và vùng viễn đông nhằm mở rộng thị trường và tìm nguồn nguyên liệu, từng bước xâm lược các nước phương Đông. Việt Nam đã có nhiều nước đặt quan hệ ngoại giao buôn bán, thăm dò, chuẩn bị kế hoạch. Tư bản Pháp đã tổ chức các hoạt động thăm dò thông qua hoạt động của công ty Đông - Ấn và hội truyền giáo nước ngoài tại Việt Nam.
            Âm mưu xâm lược của tư bản Pháp đối với Việt Nam lâu dài và liên tục, bắt nguồn từ thế kỷ XVII và xúc tiến mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XIX. Năm 1812, Na-pô-lê-ông I ra lệnh cho nghiên cứu lại hiệp ước Véc-xây (1787) để tìm cớ can thiệp vào Việt Nam. Năm 1818, Lu-I XVIII cử phái đoàn sang Việt Nam yêu cầu vua Gia Long nhượng cho Pháp cửa biển Đà Nẵng và Côn Lôn. Năm 1819, Anh chiếm Singapore, sau đó cử xứ thần đến Huế yêu cầu mở cửa cho Anh vào buôn bán (1822). Pháp bị Anh gạt khỏi Ấn Độ, không khỏi lo lắng bị mất thị trường ở Việt Nam. Những năm 30 của thế kỷ XIX, nước Pháp bước nhanh trên con đường đại công nghiệp. Nhưng đối thủ của Pháp là Anh thì đã bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp trước Pháp nữa thể kỷ. Cuối những năm 30, Anh đã sẵng sàng tiến công vào lục địa Trung Quốc. Trong tình hình đó Pháp càng ráo riêt xâm lược Việt Nam. Năm 1843 thủ tướng Pháp Ghi-dôt tuyên bố nước Pháp cần có hải đảm bảo ở Viễn Đông là một căn cứ quân sự ở biển Trung Quốc và một thuộc địa ở gần Trung Quốc. Các vua đầu triều Nguyễn không phải không hay biết về ý đồ xâm lược của Pháp. Nhưng họ không có giải pháp chiến lược nào nâng cao năng lực trước ngọa ngoại xâm. Để trả ơn tư bản Pháp, Gia Long tri phong Bá Đa Lộc là thái tử thái phó Bi nhu quận công. Ông cho giáo sĩ Pháp tự do hoạt động và lưu các võ quan Pháp đã từng giúp ông ở lại làm quan trong triều đình Huế. Bọn này hoạt động gián điệp ngay trong lòng chúng ta. Đa-yo được Gia Long phong tước Tri lược hầu, chức Khâm sai đại thần. Hồi còn chỉ huy hải quân của Nguyễn Ánh, y vẽ bản đồ bờ biển và đường thủy Việt Nam, rồi năm 1807 bí mật gửi tài liệu này về Pháp. Sen-hô được phong tước toàn hầu, chức Chưởng cơ. Sen-ho và vanie thường liên lạc với hầu tước Ri-sơ-liơ để báo cáo tình hình Việt Nam. Năm 1819 “Sen-ho về Pháp để bày tỏ những phương sách mà ông ta có thể cống hiến cho sứ sở”, rồi trở lại Việt Nam với chức vụ khâm sai của Pháp hoàng.
            Đầu thế kỷ XIX, các giáo sĩ của hội truyền giáo nước ngoài Pháp không dừng lại ở hoạt động điều tra gián điệp như thế kỷ trước, mà đã tiến thêm một bước can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, họ ủng hộ một số viên đại thần vận động cho con trai Đông cung cảnh nối ngôi Gia Long, khuyến khích sự chống đối của Lê Văn Duyệt với Minh Mạng, kích động sự bất mản của Hồng Bào để gây ra vụ âm mưu bạo động chống Tự Đức (1848). Mưu đồ của họ là tìm con bài dự trữ cho Pháp, trước mắt là làm cho triều đình Huế thêm cô lập. Lợi dụng sự bất mãn của nhân dân ta với chế độ nhà Nguyễn, họ xen vào nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân mong gây ảnh hưởng trong quần chúng và đánh lạc hướng những hành động chuẩn bị chiến tranh xâm lược của Pháp. Năm 1826, một số giáo sĩ Pháp nhúng tay vào cuộc khởi nghĩa ở Bắc thành, sau đó lại thâm nhập vào khởi nghĩa Văn Khôi ở thành Phiên A (Gia Định). Hội truyền giáo nước ngoài tập trung hoạt động trong số gần 50 vạn giáo dân. Chúng kích động một số giáo dân lạc hậu để gây hận thù giữa giáo và lương. Chúng lường gạt bằng thần quyền và ép buộc một số con chiên làm việc do thám cho chúng. Chúng xúi giục giáo dân vi phạm luật lệ của triều đình, tạo ra những vụ mất an ninh trật tự. Chúng chủ trương làm ruỗng nát xã hội Việt Nam từ bên trong bằng cách gây chia rẽ trong nội bộ của dân tộc ta, hòng thủ tiêu tinh thần kháng chiến của Việt Nam khi chúng đem quân xâm lược. Chúng đinh ninh rằng “Đánh chiếm Việt Nam sẽ dễ dàng hết sức, sẽ không gây phí tổn gì cho nước Pháp. Dân chúng hiền lành, cần cù, rất thuận lợi cho việc tuyên truyền lòng tin thiên chúa giáo, đang rên siết dưới sự bạo tang đến tột độ. Họ sẽ đón tiếp chúng ta những người giải phóng và những ân nhân”. Thực dân Pháp đã tìm cách “ đưa” triều đình Huế vào cái bẫy cấm đạo mà mình đặt ra, các Vua ra các sắc chỉ cấm đạo năm : 1825, 1833 và 1851. Bọn gián điệp Pháp đội lốt giáo sĩ lại nắm lấy cơ hội đẩy mạnh việc chia rẻ và khoét sâu mâu thuẫn giữa giáo và lương – người Việt không theo kito giáo.
            Đồng thời thực dân Pháp tiến hành những vụ khiêu khích về quân sự. Năm 1822,1825, Pháp cho tàu chiến vào Đà Nẵng đòi triều đình Huế thả giáo sĩ bị bắt, đòi tự do buôn bán. Năm 1845, hai lần tàu chiến Pháp vào thị uy ở cửa biển Đà Nẵng. Năm 1847, tàu chiến chúng lại tiếp tới khiêu khích Việt Nam. Tháng 3 năm 1847, hai tàu chiến Pháp vào Đà Nẵng. Thuyền trưởng cùng giáo sĩ Pháp ngang nhiên đi thẳng vào công quán hâm dọa. Tháng 4 năm 1847, tàu chiến Pháp lại vào Đà Nẵng đánh phá chiến thuyền của triều đình Huế. Ở trong đất liền, giáo sĩ Pháp ép buộc một số con chiên làm tay sai cho chúng. Sau khi hay tin Pháp uy hiếp Đà Nẵng, Vua Thiệu Trị đã tức giận và hạ vụ nhằm siết chặt việc “ cấm đạo, sát đạo”.
            Đến tháng 11 năm 1847 khi vua Tự Đức lên ngôi, vua đã tiếp tục khắc khe cấm đạo và sát đạo hơn, làm cho các nhà giáo sĩ Pháp có cớ thôi thút vua Pháp tiến hành can thiệp vũ trang vào Việt Nam. Cách mạng tư sản Pháp năm 1848 và đế chế thứ hai thành lập (1852) tuy có làm chậm kế hoạch xâm lược Việt Nam, nhưng việc chuẩn bị xâm lược sau đó càng gấp rút hơn
            Giữa thế kỷ XIX, lúc các tàu chiến Pháp lảng vảng ở biển Việt Nam, thì cũng là lúc các giáo sĩ Pháp như Giám mục Rôt, giám mục Pe-lơ-ranh, giáo sĩ Húc, tới tấp yêu cầu Napoleong III gấp rút hành động. Chúng sợ “ Người Anh đang nhòm ngó Đà Nẵng, họ sẽ đi trước chúng ta nếu họ biết đề án đánh chiếm của ta”. Năm 1856, giám mục Pe-lơ-ranh lẻn xuống tàu Pháp ở Đà Nẵng báo cáo tình hình, sau đó Pe-lơ-ranh từ Việt Nam về Pháp tâu với Na-pô-lê-ông III rằng: “ Những công giáo An Nam sẽ nổi lên hàng loạt khi người Pháp tới và sẽ đi theo những người giải phóng họ để trong một ít ngày kết thúc cuộc hành binh”. Đầu năm 1857, Pháp lập ủy ban nghiên cứu vấn đề Việt Nam đưa ra quyết định gấp rút đánh chiếm Việt Nam. Na-pô-lê-ông III cử sứ thần đến Huế đòi “ truyền đạo tự do, buôn bán tự do”. Bộ trưởng bộ hải quân và thuộc địa Pháp ở Thái Bình Dương để cùng Anh, Mỹ xâm lược Trung Quốc, đồng ra lệnh cho thiếu tướng  hải quân Đơ-Giơ-nui thống lĩnh quân đội viễn chinh Pháp đánh chiếm Việt Nam sau khi chiếm được Quảng Châu. Ngày 22 tháng 04 năm 1857, Na-pô-lê-ông III quyết định thành lập “ Hội đồng Nam Kì” để xem xét hiệp ước Véc-xây, nhằm mục đích hợp thức hóa việc đem quân  đánh chiếm Việt Nam.
            Chủ trương cấm đạo Thiên Chúa của vua Nguyễn lúc này đã tạo điều kiện cho vua Pháp thực hiện ý định trên. Những thông tin báo về Pháp về tình hình khủng hoảng xã hoảng xã hội ở Việt Nam, về sự suy yếu của triều Tự Đức, càng làm chính phủ Pháp mạnh bạo hơn trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam. Tháng 09 năm 1858, với cớ là bênh vực giáo sĩ, chống lại việc triều đình Nguyễn ngược đãi các giáo sĩ và cự tuyệt việc nhận các quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán Việt Nam, Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta.
1.2. Tình hình trong nước
            1.2.1. Tình hình kinh tế
            Đối với nông nghiệp , thực hiện chính sách khai hoang với các hình thức “ Doanh điền” và “ Đồn điền”. Tổ chức phát triển và củng cố hệ thống đê điều. Kết quả là Triều Nguyễn tiếp tục khai hoang hoàn chỉnh vùng đất Gia Định, một sự nghiệp vĩ đại của dân tộc đã khởi đầu từ hơn hai thế kỷ trước. Từ năm 1802 đến năm 1855, triều đình ban hành 25 quyết định về khai hoang, trong đó 16 quyết định áp dụng ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành, 1 ở vùng kinh kì và 6 đối với toàn quốc. Ở Nam cũng như ở Bắc, hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân lưu tán lập đồn điền. Một số quan chỉ đạo khai hoang có kết quả  như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Thoại,…Tuy công việc khai hoang có kết quả, nhưng thành quả khai hoang trước hết lọt vào tay giai cấp địa chủ phong kiến. Hiện tượng dân phiêu tán càng trở nên phổ biến hơn. Năm 1840, các tỉnh thành Gia Định báo cáo cho Minh Mệnh: “ Trong hạt không có ruộng công, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến nghìn trăm mẫu, dân nghèo không được nhờ cậy”. Bên cạnh đó chính quyền nhà Nguyễn còn tiếp tục thi hành chế độ quân điền nằm đảm bảo cho chế độ quân lính và công lành xã với hình thức công điền, và thừa nhận sự tồn tại của chế độ tư điền, …Do đó dân nghèo phiêu tán ngày càng tăng, ruộng bỏ hoang ngày càng nhiều, tình hình kinh tế sa sút,  song bên cạnh đó nạn mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra triền miên làm cho đời sống của nhân dân vô cùng khổ cực.
            Đối với công thương nghiệp, ngay từ đầu thế kỷ với một số biện pháp tích cực nền công nghiệp của Việt Nam đã phát triển nhất định và đạt được những thành tựu đáng kể và đã làm xuất hiện các khu trung tâm buôn bán sầm uất. Nhưng từ giữa thế kỷ XIX, chính triều Nguyễn chủ trương “ ức thương” dần dần “ bế quan tỏa cảng”. Triều đình nắm độc quyền ngoại thương, quản lí các  hầm mỏ và công xưởng lớn, thi hành chính sách công tượng. Trong những thập niên đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn còn cử nhiều quan lại cầm đầu phái đoàn đi các nước lân bang để mua hàng hóa và giám sat tình hình hoạt động của tư bản nước ngoài. Nhưng sự ràng buộc của chế độ phong kiến chuyên chế lại thêm sự uy hiếp ngày càng tăng của chủ nghĩa tư bản thực dân  phương Tây khiến triều Nguyễn không dám vượt lên bằng những cuộc cải cách và giao thương cởi mở đường cho công thương nghiệp phát triển mạnh. Và cũng chính chính sách “ bế quan tỏa cảng” đã khiến cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài và làm cho công thương nghiệp trong giai đoạn này bị đình đốn nghiêm trọng.
            1.2.2. Tình hình chính trị
            Ngay sau khi lên ngôi (1802), Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia Long đã tiến hành khôi phục nền thống trị của họ Nguyễn trên toàn quốc gia thống nhất từ mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan.
            Vận mệnh quốc gia dân tộc nằm trong tay triều Nguyễn, dưới triều Nguyễn, vua là “ con trời” có uy quyền tuyệt đối. Giai cấp địa chủ và hệ thống quan lại cường hào là rường cột của chế độ. Đối nội để tập trung quyền lực, Gia Long đặt lệ “ Tứ bất”. Đối ngoại, triều Nguyễn thực hiện chính sách thần phục phong kiến Trung Quốc và “ bế quan tỏa cảng” mong chánh tư bản phương tây dòm ngó Việt Nam. Gia Long và Minh Mạng đã khước từ tổng cộng 30 đoàn ngoại giao và ngoại thương phương tây đã đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Một chính sách nội trị bảo thủ và lạc hậu không làm cho năng lực nội sinh của đất nước được mạnh thêm thì với chính sách ngoại giao “ đóng cửa” làm sao vương triều và quốc gia có đủ sức đương đầu với những thử thách mới của chủ nghĩa tư bản thực dân đang ập tới, mà đặc biệt là chủ nghĩa tư bản Pháp đã dòm ngó Việt Nam từ rất lâu rồi. Hệ thống quản lí nhà nước rất quy cũ nhưng cũng rất quan liêu độc đoán, nạn quan tham lam lại ngày càng công nhiên hoành hành.
            1.2.3. Tình hình văn hóa – xã hội
            Về nền tảng ý thức hệ, triều Nguyễn dựa trên cơ sở ý thức hệ Nho giáo – Khổng giáo kết hợp với ý thức dân tộc phát triển và vận dụng nó trong các lĩnh vực văn hóa một cách mềm dẻo. Về giáo dục, nền giáo dục triều Nguyễn đã tạo điều kiện cho mọi người dân đi thi để có thể tham gia vào quan trường. Nội dung học tập, giáo dục chủ yếu gắn bó với “ Tứ thư, ngũ kinh”…
            Về tôn giáo, nhà nước không khuyến khích phát triển nhưng trong cách cai trị của các vua Nguyễn muốn kết hợp tinh thần của Nho và phật trong giáo dục nhân dân, riêng đối với Kito giáo về sau ( thời Thiệu Trị trở đi ) thì tôn giáo này bị cấm và hạn chế phát triển.
            Về văn hóa, dưới triều Nguyễn có nhiều thành tựu về kiến trúc mang tầm di sản văn hóa thế giới “ Công trình cố đô Huế”, “ Nhã nhạc cung đình”,... Các bộ lịch sử của Quốc sử quán triều Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện,…Tuy nhiên, triều Nguyễn đã trở lại dùng chữ Hán làm ngôn ngữ nhà nước và phương tiện giáo dục, hủy bỏ cải cách giáo dục của triều Tây Sơn trước đó phát triển tiếng nói, chữ viết dân tộc.
            Về xã hội, đầu thế kỷ XIX triều Nguyễn đã nhanh chống khôi phục lại chế độ phong kiến, và ổn định tình hình đất nước nhưng đến nữa thế kỷ XIX tình hình kinh tế-xã hội trở nên lạc hậu. Khi thời đại tư bản chủ nghĩa đã xác lập trên phạm vi toàn cầu, khi nguy cơ bị xâm lược bởi chủ nghĩa thực dân ngày càng đến gần, triều Nguyễn – Vua Tự Đức đã làm mất khả năng ứng phó của dân tộc. Trong quá trình trị vì các vua triều Nguyễn đã dùng pháp luật, quân đội và Nho giáo kìm kẹp nhân dân về mọi mặt trong trật tự của nền chuyên chế cực đoan đã gây ra mâu thuẫn xã hội. Và cũng chính những nguyên nhân đó đã khiến nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân chóng triều đình liên tiếp nổ ra như: Phan Bá Vành (1821-1827), Nông Văn Vân (1833-1835),…
CHƯƠNG II: THÁI ĐỘ, TRÁCH NHIỆM CỦA TRIỀU NGUYỄN TRONG VIỆC ĐỂ NƯỚC TA RƠI VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP CUỐI THỂ KỶ XIX
2.1 Thái độ
            2.1.1. Khi Pháp nổ súng mở đầu xâm lược nước ta 1-9-1858
            Với âm mưu xâm lược Việt Nam đã có từ trước, và thực dân Pháp xúc tiến mạnh mẽ việc xâm lược nước ta từ giữa thế kỉ XIX.
            Vào ngày 1 tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp đã tấn công vào cửa biển Đà Nẵng của nước ta, sở dĩ thực dân Pháp chọn Đà Nẵng là nơi tấn công đầu tiên vì Đà Nẵng có một vị trí quân sự quan trọng, hải cảng rộng và sâu, thuận tiện cho tàu chiến triển khai. Hơn nữa theo cách nhìn của giới quân sự Pháp, Đà Nẵng là cổ họng của Huế, chỉ cách Huế 100km về phía nam, neeus chiếm được Đà Nẵng, người Pháp có khả năng chiếm ngay kinh thành Huế, sớm kết thúc chiến tranh.
            Giới quân sự Pháp cũng được lời hứa hẹn rằng, Giám mục Peloranh đã hoạch định kế hoạch lôi kéo giáo dân vùng ven biển Đà Nẵng nổi dậy, phối hợp với hải quân Pháp khi vào trận. Nhưng sự thực, điều này đã không xảy ra.
VIỆC Đà Nẵng bị tấn coong khoong hề bất ngờ với triều đình. Sách Dương sự thủy mạt đã ghi rằng, từ năm 1857, nhiều bản điều trần đã dâng lên Tự Đức đề nghị triều đình cho tăng cường phòng thủ cho hải cảng này. Theo kế hoạch đó, trên sông Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà được đắp thêm hai đồn lũy kiên cố, đèo Hải Vân cũng được xây thêm các đồn phòng thủ, có sẵn đá hộc chặn giặc. Quân số trên các đồn chính ở Đà Nẵng có lúc lên tới gần 5000, trang bị thêm đại bác mới…
            Rạng sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, không chờ quân triều đình trả lời tối hậu thư liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã nổ súng vào bán đảo Sơn Trà. Trước tình hình đó, Tự Đức đã lập tức cách chức Tổng đốc Trần Hoàng và Hồ Đức, cử danh tướng Nguyễn Tri Phương làm tổng đốc Quảng Nam cùng Chu Phúc Minh ra Đà Nẵng chặn giặc. Nhưng ông không chủ trương tấn công tiêu diệt giặc mà ông đã chủ trương bao vây giặc bằng cách xây dựng tuyến phòng thủ từ Hải Châu tới Thách Giản dài 4km nhằm vây chặt Pháp không cho chúng đánh rộng ra. Mặt dù chiến thuật này không độc đáo nhưng cũng làm cho quân Pháp bị giam chân trong 5 tháng liền, bị tiêu hao, bị dịch bệnh hoành hành ( 200 tên chết trong vòng một tháng), khả năng được tiếp ứng từ đất liền hoàn toàn không có.
            Trong tình trạng khó xử đó, R. Giơnuiy quyết định chuyến hướng, chỉ để lại một lực lượng nhỏ ở bán đảo Sơn Trà, còn đại quân sẽ tiến vào Nam Kì mà đầu tiên là thành Gia Định, sau nhiều ngày công phá các pháo đài Phúc Thắng, Lương Thiện,… có nhiệm vụ bảo vệ thành. Đến trưa ngày 17 thực dân Pháp đã chiếm được thành Gia Định. Nhưng cũng như ở Đà Nẵng thực dân Pháp không đủ sức bảo vệ thành, tướng Giơnuiy đã ra lệnh đốt thành và đưa quân xuống đóng dưới tàu chiến đậu trên sông để tránh quân ta phục kích.
            Đến tháng 02 năm 1859, Đô đốc Pagio được cử thay Gionuiy, nước Pháp lại đang sa lầy ở Xyri, quân Pháp đành phải rút khỏi Đà Nẵng và Đà Nẵng được giải phóng, trong khi đó cơ hội để hất cẳng Pháp khỏi Gia Định cũng rất là lớn như quân Pháp chỉ có 1000 tên nhưng nằm rải rác trên một tuyến dài 10km. Nhưng tư tưởng sợ giặc, “ chủ hòa” bắt đầu lan ra làm phân tán lòng người. Cũng chính tư tưởng này đến ngày 23 tháng 03 năm 1862 ta bị mất thành Vĩnh Long.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được trước sức tấn công ồ ạt của Pháp, ngay từ đầu, giai cấp phong kiến cầm quyền có trách nhiệm bảo vệ độc lập dân tộc lại tỏ ra do dự thiếu quyết đoán và bất lực, trong nội bộ triều đình đã sớm có sự phân hóa sâu sắc: Phái chủ chiến và phái chủ hòa.
            Còn đứng trên lập trường giai cấp phong kiến thống trị, hai phái trên lại có cách giải quyết mâu thuẫn dân tộc khác nhau. Phái chủ chiến muốn dựa vào phong kiến Trung Quốc để đánh đuổi bọn cướp nước xa lạ mà họ gọi là bạch quỷ ( quỷ trắng ) hay dương quỷ ( quỷ ngoài biển ). Tiếng súng của giặc đã nổ ầm bên tai mà triều đình còn bận bàn cãi, nghị luận lung tung, kẻ hòa, người đánh, trên dưới đều không nhất trí, đánh hòa không ngã ngũ. Nhưng tựu trung lại, ý kiến được nhiều người tán thành là chủ hòa. Điều đó đã khẳng định một thực tế là ngay từ đầu, đại bộ phận hàng ngủ quan lại phong kiến cầm quyền đã mang nặng tư tưởng thất bại chủ nghĩa, chính tư tưởng này đã làm cho quân ta mất nhiều cơ hội để đánh Pháp, hết Trần Hoàng đến Lê Đình Lý, Phạm Khắc Thận,… cuối cùng cả danh tướng Nguyễn Tri Phương cũng tỏ ra “ án binh bất động” chỉ chủ trương bao vây địch ngoài mé biển mà không chủ động tấn công địch vì đây cũng là do thái độ do dự không dức khoát của hai phái trong triều đình nhà Nguyễn.
            Nhưng cũng cần nói rằng những điều kiện phòng thủ và tấn công địch trên mặt trận Đà Nẵng không phải là ít. Ngay từ đầu khi quân Pháp tấn công vào cửa biển Đà Nẵng đã gặp phải sức kháng cự quyết liệt của triều đình và nhân dân ta, khiến cho quân Pháp gặp nhiều khó khăn, buộc Pháp phải “ án binh bất động” trong thời gian dài, như tướng Giơnuiy nhận đinh rằng: “ Nếu họ đánh mạnh thì họ đã đánh bại chúng tôi lâu rồi” cũng chính thái độ do dự của triều đình đã khiến cho ta mất nhiều cơ hội tiêu diệt Pháp khi Pháp đang gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó do sự nhìn nhận tình hình của triều đình không đúng và không có kết hợp được với sức mạnh toàn dân để đánh bại thực dân Pháp xâm lược.
2.2.1. Trong công cuộc canh tân đất nước
Đến những năm 40-50 của thế kỷ XIX , mà đặc biệt là những năm trước khi Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất trong triều đình đã rộ lên những phong trào cải cách đất nước, đặc biệt là những sĩ phu công giáo có cơ hội đi ra nước ngoài như: Phạm Phú Thứ, Nguyễn Hiệp, Đặng Công Trứ,…nhất là Nguyễn Trường Tộ. Những người này thấy rõ sự trì truệ của đất nước, sự bảo thủ của giới “hủ nho: và Nho giáo, sự tai hại của chính sách đóng cửa và đặc biệt là quay lưng lại với những tiến bộ kỹ thuật của văn minh phương tây. Phần lớn họ vẫn chấp nhận chế độ phong kiến, nhưng đều muốn nước ta đi theo con đường Minh Trị Duy tân của Nhật Bản
Trong tất cả những đề xuất của nhà nho yêu nước Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ XIX, đáng chú ý hơn cả là dự án canh tân của Nguyễn Trường Tộ. Dự án của ông khiến cho không ít những người đương thời và hậu thế tán đầu và khâm phục, vì, theo họ, đó là một kế hoạch đổi mới toàn diện đất nước, nếu được thực thi, có thể xoay chuyển được tình hình đất nước lúc bấy giờ.  Năm mươi tám bản điều trần trong tám năm (1863-1871) mà Nguyễn Trường Tộ gửi cho triều đình Huế là cả một bản kế hoạch đồ sộ, hy vọng để xoay vần đất nước mà người đời sau hết lòng thán phục. Nội dung bản điều trần của ông nổi lên bốn vấn đề chính: Cải cách kinh tế, văn hóa và giáo dục, quân sự, chính trị ngoại giao. Đó là đề nghị mà Nguyễn Trường Tộ đã dồn cả tâm huyết và trí lực sáng tạo nên, và điều đáng ngạc nhiên là nó không thua kém gì các nội dung cải cách của các nước láng giềng lúc bấy giờ.
Vậy, vấn đề đặt ra: Thái độ của triều Nguyễn như thế nào khi xem xét những ý kiến đó của Nguyễn Trường Tộ? Hay vì sao kế hoạch cải cách đồ sộ của ông lại không được thực hiện? Có phải ông thiếu kiên trì và nhiệt thành đệ trình bản kế hoạch lên nhà vua hay không? Hay vì Tự Đức nhất mực khước từ đề nghị này? Lâu nay và không ít ý kiến giải đáp cho rằng tất cả là do nhà Nguyễn mà đại biểu là Tự Đức.
Công bằng mà nói, không phải Tự Đức quay lưng hoàn toàn với cải cách . Ông đã đã đọc các điều trần và thái độ không phải lúc nào cũng thờ ơ với những điều tâm huyết trong cải cách. Trong thực tế, nhà vua cũng đã thi hành một số cải cách trong  các lĩnh vực kinh tế ( như mở các mỏ than, sắt; định ngạch thuế trong thương mại, lập Ty bình chuẩn trông coi công việc buôn bán; mua sắm vũ khí, dịch tài liệu quân sự nước ngoài để huấn luyện quân đội; phê chuẩn việc học tiếng nước ngoài; đưa người ra nước ngoài học tập, giao lưu với một số nước…). Khi đám quần thần bàn lùi trong thực thi cải cách thì ông dụ rằng “ Xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chính, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến là thoái vậy!” [9, tr. 138]. Tuy nhiên, ông cũng là một ông vua thiếu quyết đoán, chủ yếu dựa vào ý kiến của các triều thần như: Có lúc trước những đề nghị canh tân dồn dập của Nguyễn Trường Tộ thì ông lại cho rằng: “ Nguyễn Trường Tộ quá tin vào những lời hắn đề nghị. Nếu cần phải canh tân thì ta cứ làm từ từ. Tại sao lại thúc dục nhiều đến thế khi mà những khôn phép cũ của ta cũng rất đầy đủ để điều khiển quốc gia rồi” [9, tr. 141]. Vì thế, những đề án cải cách thường bị cho vào ngăn tủ rồi bị lãng quên hoặc nó được thực thi ở những điểm nào đó, nhưng cũng chỉ là nửa vời, vớt vát, không mang lại kết quả.
Không thể trách một mình vua Tự Đức. Ngôi nhà mà các nhà canh tân thiết kế trông đồ sộ nhưng lại thiếu một nền móng vững chắc, thiếu một người chỉ huy thi công- đó là một chính quyền đủ mạnh, có thể đảm đương việc triển khai canh tân. Và thực tế Việt nam cuối thế kỷ XIX cũng đã chứng minh điều đó: Một bộ máy nhà nước dựa vào đám quần thần bảo thủ, lạc hậu, một ông vua thiếu quyết đoán, không dám vượt lên những lời bàn của đám hủ nho thì những đề nghị cải cách của những nhà canh tân, trong đó có Nguyễn Trường Tộ trở nên lạc lỏng và bị rơi vào im lặng là điều tất yếu.
Ví dụ: Nếu so sánh với Nhật Bản với Xiêm thời điểm mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị cải cách, Việt Nam chưa có một cấu trúc chính trị - xã hội tiên tiến như Nhật Bản, kể cả Xiêm. Trong lúc Âu – Mỹ, khoa học – kỹ thuật phát triển nhanh chóng, nền kinh tế thay da đổi thịt với những thành tựu đáng kinh ngạc, thể chế chính trị chuyển sang một cấu trúc mới – tư bản chủ nghĩa…thế mà ở Việt Nam triều thần quanh vua Tự Đức chỉ lo tầm chương trích cú, rửa bút mài nghiên theo lối cổ hủ, bàn đến quốc sự thì lấy nghêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu xa xưa của Trung Quốc làm gương, tự vỗ ngực là văn minh, chê bai thiên hạ…Khi đất nước bị đe dọa thì phái ngoài, vua hỏi kế sách thì tất cả im lặng; khi nước ngoài cải cách tác động vào và nhiều nhà canh tân Việt Nam đưa ra những điều trần đổi mới thì triều thần cho là nói càn, bản nhảm…thì những tư tưởng trên bị thất bại là điều tất yếu mà thôi.
Bên cạnh đó, triều đình Nguyễn mà đặc biệt là Vua Tự Đức vẫn chưa tin tưởng ở Nguyễn Trường Tộ để tiến hành thực hiện cải cách thông qua thái độ của Tự Đức khi xem xét bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ như: “ Những lời tê Tộ thật đã khám phá sự tình. Nhưng y vốn không phải tộc loại với ta, tình ý chưa tin nhau, vội vàng thi hành e chưa tiện” [8, tr. 217]
“ Không phải tộc loại” vì Nguyễn Trường Tộ là sĩ phu Công giáo. Và công giáo trong giai đoạn này là một vấn đề làm xói mòn sức chiến đấu của nhân dân ta. Đây là một chiêu bài của thực dân Pháp để hòng chia rẽ, hủy hoại từ bên trong sức lực của triều đình, của dân chúng ta. Từ việc kích động dân công giáo nổi dậy.
Nhưng! Nói gì đi nữa việc thất bại “ cơ hội” để nước thoát khỏi sự thống trị của thực dân Pháp, hay nói đúng hơn là thất bại trong công cuộc canh tân đất nước, để nước ta dần dần rơi vào tay thực dân Pháp, nhà Nguyễn phải một chịu một phần trách nhiệm trong việc biến việc mất nước từ không tất yếu trở thành tất yếu.
2.1.3 Khi kí kết các hiệp ước đầu hàng
Để tìm hiểu về thái độ của triều đình Nguyễn khi kí kết các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp.
Vấn đề đặt ra: Vì sao nhà Nguyễn ký các hiệp ước đầu hàng trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884).
Như chúng ta đã biết, thực dân Pháp đã có âm mưu xâm lược nước ta từ khoảng thế kỷ XVII, nhưng chưa có điều kiện để thực hiện. Đến giữa thế kỷ XIX, viện cớ nhà Nguyễn thi hành chính sách cấm đạo, giết đạo, chính phủ Pháp đẩy mạnh kế hoạch chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trước nguy cơ xâm lược của một kẻ thù mà nhà Nguyễn đã dựa vào để đánh bại Tây Sơn, lại có ý thức cảnh giác với âm mưu xâm chiếm của chúng, công bằng mà nói, đã chuẩn bị và tiến hành kháng cự khi thực dân Pháp dám đến gần. Khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, triều đình đã vội điều binh khiển tướng tăng cường cho mặt trận Quảng Nam để kiên quyết đánh giữ. Bên cạnh đó vua Tự Đức còn dụ thuyền tìm mưu kế hay trong quan dân đế chống lại thực dân Pháp xâm lược. Tuy vậy, triều đình Huế vẫn còn mơ hồ về âm mưu và hành động xâm lược của Pháp. Bản thân vua Tự Đức khi thấy quân Pháp chiếm đóng mãi ở Gia Định đã nói với Viện cơ mật rằng: “ trước kia trẫm nghĩ là người Tây dương đến Gia Định, đã no chán thỏa thích rồi, thì tất lui. Không ngờ chúng thực có lòng cố giữ” [9, tr. 477]. Còn các quan trong triều ( thuộc phái chủ hòa ) thì hầu hết cho rằng người Tây đánh ta chỉ để đạt được mục đích tự do thông thương và truyền đạo, mà không hiểu rằng đó chỉ là cái cớ để chúng thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Khi thực dân Pháp bị tướng Nguyễn Tri Phương giam chân ở Đà Nẵng thì Giơnuiy đã chuyển hướng quân tấn công vào Gia Định. Đầu năm 1962, phong trào kháng chiến của nhân dân đang dân cao, do không nắm được tình hình thế giới đến đầu tháng 5 năm 1862 triều đình Tự Đức xin “ nghị hòa” với quân Pháp, do không nắm được thực dân Pháp đang gặp khó khăn trước sự thất bại tại chiến trường Mê-hi-cô cùng cuộc chiến tranh hao tài tốn của ở Trung Quốc, chính điều này đã làm thực dân Pháp cũng phải thốt lên: “ May mắn thay, đang lúc phải đón đợi lấy một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu kí hòa ước”.
Với việc kí hòa ước 1862 đã gây tình trạng bất bình trong nhân dân, rồi tiếp đó là các hiệp ước khác như: hiệp ước bất bình đẳng 1874 và hiệp ước Pa-tơ-nôt năm 1884. Và hiệp ước này cũng đánh dấu một điều là nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp.
Vậy, do có tư tưởng cầu hòa từ trước nhà Nguyễn đã không dùng những chính sách cứng rắng để chống lại một đế quốc hùng mạnh xâm lược đó là đế quốc Pháp, hơn nữa trong nội bộ triều đình lại luôn luôn mâu thuẫn với nhau không thể phát huy được sức mạnh toàn dân để đánh Pháp, còn những người cầm đầu thì do dự thiếu quyết đoán nên không thể đưa ra một chính sách phù hợp để chống kẻ thù. Chính sự thiếu thống nhất đó đã bị thực dân Pháp lợi dụng thừa lúc vua Tự Đức mới qua đời, triều đình đang bối rối, quân Pháp kéo vào tới sát kinh thành Huế mà triều đình vẫn đang lục đục trong việc chọn người kế vị ngôi vua. Bởi vậy nên khi Pháp đưa ra các hiệp ước đã soạn thảo sẵn, triều đình Huế chỉ còn cách ngoan ngoãn chấp nhận mà thôi, mà không có biện pháp lâu dài, toàn diện, bỏ lở nhiều cơ hội khi Pháp cũng nhiều khó khăn, như chiến tranh Pháp – Phổ (1870); không thể và không cùng nhân dân kháng chiến chống Pháp.
Xét toàn bộ điều kiện khách quan và chủ quan tác động đến việc kí hiệp ước, ta thấy triều Nguyễn đã gặp khó khăn hơn là thuận lợi. Hơn nữa, triều Nguyễn lại không biết xử lý tốt mối quan hệ giữa khó khăn và thuận lợi, thường lấy khó khăn làm lý do biện minh cho các hành động hèn nhát để thúc đẩy việc ký hiệp ước nhưng lại chưa tận dụng được cơ hội tận dụng nào để chuyển bại thành thắng, tạo sức ép với kẻ thù trên bàn thương lượng.
Nhưng cũng phải nhìn nhận một cách khách quan rằng chế độ phong kiến Việt Nam lúc đó đã khủng hoảng sâu sắc, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt nên khó có khả năng chống đỡ trước sự tấn công của tư bản phương Tây. Nhưng chính giai cấp phong kiến thống trị nhà Nguyễn phải chịu trách nhiệm về sự suy yếu đó. Những chính sách bảo thủ, lạc hậu của triều Nguyễn là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của đất nước và sức sáng tạo của nhân dân. Đến khi thất bại trước cuộc vũ trang xâm lược của thực dân Pháp thì triều Nguyễn lại đổ lỗi cho khách quan và lấy việc ký hiệp ước làm lối thoát duy nhất. Thực ra trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc làm mất nước ta vào tay thực dân Pháp là điều không thể chối cải được.
2.2. Trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX
          Trước đây, do nhận thức vấn đề chưa đầy đủ, đã từng có những đánh giá khá nặng nề về triều Nguyễn, như cho là “ phản động toàn diện”, hà là “ cõng rắn cắn gà nhà” là “ rước vuoi về day mã tổ”, để rồi cam tâm bán nước cho giặc.
            Giờ đây, với cái nhìn mới, cùng với sự phân tích các sự kieenj lịch sử một cách khoa học khách quan, đã có một số ý kiến tương đối nhất trí về cách đánh giá nhà Nguyễn tgrong lịch sử.
            Trước hết cần phải đặt triều Nguyễn – cũng như sự xâm lược của tư bản phương Tây nói chung – trong đó có tư bản Pháp vốn có nhiều quan hệ với Việt Nam từ sớm thông qua các hoạt động liên tục và ngấm ngầm trong nhân dân của đội giáo sĩ và thương nhân kiêm gián điệp – trong bối cảnh chung của lịch sử thế giới là cuộc chạy đua ráo riết giữa các nước tư bản chủ nghĩa săn tìm các thuộc địa. Khu vực Đông Nam Á – trong đó có Việt Nam, với các điều kiện đất rộng, người đông, tài nguyên phong phú luôn luôn là đối tượng dòm ngó, săn lùng, là miếng mồi ngon cho bọn tư bản háu lợi. Việt Nam cùng các nước trong khu vực phải đối đầu với nguy cơ xâm lược; và cuối cùng trước sức tấn công quyết liệt  của bè lũ tư bản phương Tây có ưu thế tuyệt đối vè vũ khí đều lần lượt bị chúng thôn tính, chỉ trừ Thái Lan nhờ nằm vòa một vị trí trái độn giữa hai tên đế quốc đẩu sỏ Anh – Pháp nên vẫn giữ được nền độc lập hình thức, nhưng về thực chất vẫn nằm gọn trong hai tay đế quốc đầu sỏ.
            Có thể khẳng định bối cảnh chung được giới thiệu trên là một nguyên nhân khách quan sẽ dẫn tới việc thực dân nổ súng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam (1858). Đó là nguyên nhân khách quan từ ngoài áp đặt tới, ngoài ý muốn chủ quan của chính quyền và nhân dân các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
            Đối với Việt Nam, ngoài nguyên nhân khách quan chúng được nêu trên, còn có một nguyên nhân chủ quan mà các nước trong khu vực đều không có. Đó là việc Nguyễn Ánh trên con đường lưu vong trước sức tấn công của nghĩa quân Tây Sơn, đã phải bán víu vào tư bản Pháp háu lợi đang cùng tư bản các nước khác chạy đua tìm kiếm thuộc địa trong khu vực Viễn Đông. Về vấn đề này, gần đây trong hội thảo cũng có ý kiến cho rằng việc đi cầu cứu ngoại bang chẳng qua cũng như ở nông thôn “ cháy nhà van xóm” thôi, không đáng trách cứ! Trong cuộc tranh chấp quyền lợi, việc tranh thủ đồng  minh cũng là lẻ thường, trước kia đã có, mà ngày nay vẫn có. Nhưng vấn đề thái độ xử lý sau khi đã thắng lợi phải như thế nào đế chính kẻ đồng minh mới của mình không thể lợi dụng tình hình để mưu lợi. Trong việc này, nói gì thì nói ta phải công nhận rằng thái độ và cách cư xử của vua Gia Long – Và các vua sau đều có ý cảnh giác cao đối với thực dân Pháp. Ngày sau khi đánh bại Tây Sơn để lên cầm quyền Gia Long đã “ trả ơn” cho một số giáo sĩ Pháp có công giúp ông ta. Ông giữ lại vài người làm quan trong triều, phong cho các chức quan cao cấp, biệt đãi hậu hĩ, nhưng với ý thức cảnh giác cao gần như ông đã cô lập được số người này ngay tại triều đình, theo dõi sát sao và kiểm tra chặt chẽ những quan hệ của bọn Chaignesu, Vannier…trong mối quan hệ với các phái viên của chính phủ Pháp. Chính vì vậy mà giờ đây chúng ta có quyền nói là với việc làm của các vua triều Nguyễn, đặc biệt là ông vua Gia Long, không thể nói là có việc “ cõng rắn cắn gà nhà”, “ rước voi về dày mã tổ” mang tính tự nguyện.
            Tất nhiên cũng phải công nhận là dù sao việc Gia Long tranh thủ  sự viện trợ của Pháp cũng là một cơ hội tốt cho Pháp để ngày càng tăng cường chú ý đến Việt Nam, tìm cách xâm nhập ngày càng sâu sắc bằng hai con đường truyền giáo và buôn bán để đến khi có thời cơ thì hành động. Vì vậy cũng có thể khẳng định rằng đó là một nguyên nhân chủ quan sẽ dẫn tới cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp vào giữa thế kỷ XIX, một nguyên nhân tuy rằng chủ quan, nhưng hoàn toàn ngoài ý muốn của Nguyễn Ánh khi tranh thủ sự giúp đỡ quân sự của giặc Pháp.
            Nguyên nhân chủ quan và khách quan là như vậy, nhưng các nguyên nhân đó hoàn toàn không quyết định việc nước ta bị tư bản Pháp thôn tính. Mà việc mất nước Việt Nam vào tay Pháp vào giữa thế kỷ XIX lại do trách nhiệm chủ quan của triều đình nhà Nguyễn – nói triều đình nhà Nguyễn lúc này không phải chỉ có mấy ông vua mà là cả cái bộ máy quần thần quan liêu, bảo thủ nặng nề, nhất nhất mọi xử sự và hành động đều theo tư tưởng Tống Nho hẹp hòi và cổ hủ.
            Có ý kiến khẳng định rằng việc nước ta rơi vào tay thực dân Pháp hồi giữa thế kỷ XIX là do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với kẻ thù xâm lược, “ chỉ là vì văn minh nông nghiệp của Á Đông hết sức lạc hậu, yếu hèn; mà văn minh khoa học cũng cơ giới của Tây Phương lại quá mạnh mà thôi” [9, tr. 49]. Khẳng định như vậy thì còn gì là trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc bảo vệ đất nước, vì một lý do có tính chất “ định mệnh”, bất khả kháng rồi. Nói như vậy là việc mất nước có tính tất yếu, kẻ yếu phải thua kẻ mạnh, người văn minh phải chiến thắng người lạc hâu.
            Để làm rõ được trách nhiệm chủ quan của triều Nguyễn trong việc để mất nước vào cuối thế kỷ XIX, phải thấy được việc mất nước là một quá trình từ không tất yếu cuối cùng đã chuyển thành tất yếu, có nghĩa là buổi đầu tư bản Pháp nổ súng xâm lược, khả năng đánh bại chúng dưới lá cờ của triều đình không phải là không có, mà do chính những chính sách ai lầm của triều đình đã làm cho các khả năng đề kháng và chiến thắng của quân dân ta ngày càng tiêu mòn, kẻ địch lấn lướt từ bước này tới bước khác để cuối cùng nuốt gọn nước ta. Chứng cớ là trong thời kỳ đầu tấn công xâm lược nước ta, chúng đã vấp phải sức ngoan cường của quân dân ta chiến đấu dưới lá cờ của triều đình, tình hình chúng có lúc vô cùng nguy ngập và đã tính đến chuyện rút quân về nước để tránh bị tiêu diệt tại chỗ. Thế nhưng chính trong quá trình chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc đã ngày càng bộc lộ sự bất lực và phản động của triều đình Nguyễn chỉ sau một thời kỳ ngắn lãnh đạo nhân dân để chiến đấu-rõ ràng không ngoài mục đích giữ ngai vàng của dòng họ -đã nhanh chống trượt dài trên con đường nội bộ, cầu hòa để có thể đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước ngày càng phát triển do hàng loạt chính sách sai lầm của nhà cầm quyền, đói nội thì triệt để bóc lột nhân dân đến xương tủy để phục vụ cho cuộc sống xa hoa phung phí của bè lũ, kết hợp với thẳng tay đàn áp nhân dân các địa phương, đối ngoại lại thực hiện chính sách bành trướng đói với hai nước láng giềng sau lưng trong lúc yêu cầu chung của lịch sử ba nước bán đảo Đông Dương là phải đoàng kết với nhau để chóng lại dẻ thù chung. Bên ngoài thì kẻ thù đang ra sức đẩy mạnh âm mưu thôn tính, mà bên trong thì giữa người cầm quyền với nhân lại không cố kết một lòng, thậm chí có lúc kẻ cầm quyền đã sẵng sàng chìa tay ra hợp tác với kẻ thù dân tộc để có thêm điều kiện đàn áp phong trào quần chúng.
            Nhận định tình hình nước ta khi Pháp phát động chiến tranh xâm lược, có thể khẳng định chế độ phong kiến ở Việt Nam đang ngày càng suy yếu, lực lượng vật chất và tinh thần của nhân dân ta bị sự thống trị của nhà Nguyễn hủy hoại, chí có thể cứu vãn nguy cơ mất nước nếu nhà cầm quyền sớm biết mở đường cho xã hội tiến lên theo hướng mới, tăng cường lực lượng vất chất và tinh thần trong nhân dân để có đủ khả năng bảo vệ đất nước. Muốn vậy chỉ có thể thực hiện được bằng cách điều chỉnh các mối xung đột của địa chủ với nông dân, giữa giai cấp phong kiến ngoan cố với những thành phần tư sản chớm nở, chấn chỉnh quân đội, cố kết nhân tâm, một yêu cầu mà nhà Nguyễn với tất cả những tồn tại và hạn chế của nó hoàn toàn không có khả năng đáp ứng.
            Kết quả là tư bản Pháp đã có thể vượt qua những khó khăn không ít và không nhỏ của chúng để cuối cùng nuốt gọn Việt Nam.
            Để kết luận, có thể khẳng địn rằng Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ XIX đã bị đặt vào tình trạng khủng hoảng vai trò lãnh đạo, triều Nguyễn bằng những chính sách phản động đã tự thủ tiêu vai trò lãnh đạo của mình, đối lập sâu sắc với nhân dân cả nước, ngày càng lún sâu vào con đường ngượng bộ, cầu hòa, và cuoois cùng cấu kết với kẻ thù dân tộc trong việc đàn áp, bốc lột nhân dân. Đó là trách nhiệm, đó cũng là tội lớn của nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử. Nhà nguyễn phải chịu trách nhiệm một phần trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX.

PHẦN KẾT LUẬN
          Qua sự phân tích trên chúng ta có thể thấy được triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng là triều đại có công lẫn có “ tội”.
            Cái “ công” ở đây được thể hiện ở việc trong suốt 143 năm tồn tại triều Nguyễn cũng có những đóng góp nhất định cho dân tộc đó là dưới triều Nguyễn đất nước được thống nhất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, chính triều Nguyễn đã biên soạn những bộ sử học đồ sộ và xây dựng nên những công trình kiến trúc mà hiện nay được công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Đó là mặt tích cực còn mặt tiêu cực của triều đại phong kiến cuối cùng này được thể hiện ở cái “tội” trước lịch sử dân tộc như chính triều Nguyễn đã làm cho tiềm lực của đất nước ngày càng kiệt dần trước âm mưu xâm lược xâm thực dân Pháp. Dù một điều không thể phủ nhận là các vua Nguyễn cũng đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm và thực hiện những biện pháp nhằm củng cố triều đại và bảo vệ quốc gia. Nhưng các vua nhà Nguyễn lại lựa chọn đường lối không phù hợp với xu thế và yêu cầu của xã hội Việt Nam đặt ra, để rồi không phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc. Nhưng cũng phải nhìn nhận một cách khách quan rằng chế độ phong kiến Việt Nam lúc đó đã khủng hoảng sâu sắc, khủng hoảng về mọi mặt khó có thể chống đở nổi trước âm mưu và hành động xâm lược của một đế quốc hùng mạnh – Pháp. Nhưng chính giai cấp phong kiến phải chịu về sự suy yếu này, trong triều kẻ bàn hòa, người bàn đánh, khi giặc đánh tới kinh thành mà còn mơ hồ không có cách đối phó, để rồi dần dần nước ta bị rơi hoàn toàn vào tay Pháp. Còn người đứng đầu – vua Tự Đức tuy có ý cải cách đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, nhưng lại thiếu quyết đoán luôn luôn trong chờ vào ý kiến của quan lại trong triều, để rồi những cải cách của các nhà yêu nước như Nguyễn Trường Tộ với 58 bản điều trần nhưng cũng bị lãng quên trong ngăn tủ.
Yêu nước nhưng không có biện pháp đúng đắn, sáng tạo để giữ nước, cuối cùng chính triều Nguyễn đặc biệt là vua Tự Đức đã làm cho việc mất nước từ không tất yếu trở thành tất yếu. Đây là trách nhiệm mà cũng là “tội”, mà triều đại phong kiến cuối cùng này phải chịu trước dân tộc.


DẤU ẤN VĂN HÓA ẤN ĐỘ TRONG VĂN HÓA CHAMPA Ở VIỆT NAM


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2.  Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của đề tài
7. Cấu trúc của đề tài
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ SỰ HÌNH THÀNH VƯƠNG QUỐC PHÙ NAM TRONG LỊCH SỬ
1.1.   Điều kiện tự nhiên của vương quốc Phù Nam ……………………………….
1.2.   Sự hình thành vương quốc Phù Nam trong lịch sử ………………………….
CHƯƠNG 2: NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐƯA VĂN HÓA ẤN ĐỘ ĐẾN XỨ SỞ PHÙ NAM
2.1. Nguyên nhân dẫn đến sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam ……………………………………………………………….
2.2. Các con đường giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam
2.2.1. Con đường thương mại ………………………………………………………
2.2.2. Con đường truyền bá Phật giáo …………………………………………….
2.2.3. Chữ viết ………………………………………………………………………...
2.3. Yếu tố bản địa trong quan hệ văn hóa giữa Phù Nam và Ấn Độ ……………
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Phù nam là một vương quốc cổ ở Đông Nam Á cách Lâm Ấp về phía tây hơn 3000 lí, ở trong vùng vịnh biển lớn.Đất rộng 3000 lí, người đều đen đúa, xấu xí, búi tóc, thân trần đi chân đất, tính tình chất phát, thẳng thắng, không trộn cướp.Theo nghề cày cấy trồng trọt “ một năm trồng thu hoạch ba năm”. Nói đến Phù Nam là người ta nhớ đến một vương quốc lớn mạnh có nói là bá chủ của một vùng. Ngày nay vương quốc Phù Nam không còn nữa, nhưng chúng ta không thề nào phủ nhận được giá trị vànhững ảnh hưởng của vương quốc này đối với các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á mà đặc biệt là ở phía Nam Việt Nam.
Với vị trí chiến lược nằm ở ngã tư đường của các cư dân và các nền văn hóa, văn minh. Nằm giữa hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Hoa, nên ngay từ thời tiền sử và sơ sử Ấn Độ và Phù Nam đã sớm có những mối quan hệ qua lại về kinh tế, văn hóa.
Nhiều người đặt câu hỏi: Vậy văn hóa Ấn Độ có mặt ở Phù Nam từ lúc nào? Bằng những con đường nào là chủ yếu và nguyên nhân thúc đẩy sự giao tiếp đó?... Thiết nghĩ đây là vấn đề mà các nhà nghiên cứu cần có sự quan tâm sâu sắc hơn nữa.
Trong thực tế thì trong một thời gian dài và cho đến nay chương trình sách giáo khoa lịch sử ở trường phồ thông, thậm chí sách giáo trình ở các bậc cao đẳng,đại học hầu như ít hoặc không đề cập đến vấn đề “những con đường giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam ở Việt Nam trong lịch sử”. Điều đó tạo nên một khoảng trống trong nhận thức mỗi người, nhất là học sinh, sinh viên.
Với những lí do trên, để đáp ứng và lí giải phần nào nguyên nhân thúc đẩy sự giao lưu và tiếp xúc, những con đường giao lưu và tiếp xúc… Chúng ta đi vào nghiên cứu đề tài “Con đường giao lưu và tiếp xúc văn hóa  giữa Ấn Độ và Phù Nam ở Việt Nam trong lịch sử” để làm sáng tỏ vấn đề và góp phần làm sang tỏ hiện thực lịch sử, đó là lí do chúng em chọn đề tài này.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho tới hiện nay ở nước ta chưa có nhiều công trình nghiên cứu qui mô về con đường giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam ở Việt Nam, số lượng các tác giả nghiên cứu về vấn đế này ở Việt Nam hiện tại là rất hạn chế. Liên quan đến đề tài này có các sách, báo, tạp chí nghiên cứu lịch sử viết, nhưng mỗi người nghiên cứu một khía cạnh, một gốc khác nhau như:
G.Coedès (2008) , “Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông” NXB Thế giới. Tác giả viết về các quốc gia cổ đại bị Ấn Độ hóa, sự hình thành phát triển và suy vong của các quốc gia đó.Tác phẩm muốn đi sâu vào phân tích nguyên nhân, những con đường nào dẫn đến sự giao lưu và tiếp xúc giữa văn hóa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam.
Viện nghiên cứu Đông Nam Á (1995) , Việt Nam- Đông- Nam Á: Quan hệ lịch sử văn hóa”, NXB Chính trị QGHN. Công trình này tác giả viết khá rõ mối quan hệ giữa văn hóa Việt Nam với các nước Đông Nam Á từ thời cổ đại đến nay, nhưng chưa đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa văn hóa Ấn Độ và Phù Nam chỉ nói sơ lược còn chung chung.
Giáo sư Lương Ninh (chủ biên), (2009), “Vương quốc Phú Nam” NXB Đại học quốc gia Hà Nội.Công trình này giáo sư viết rất rõ về lịch sử hình thành, thời kì hưng thịnh và suy vong của vương quốc Phù Nam, viết một cách khá chi tiết, tuy nhiên công trình chưa đi sâu vào nghiên cứu những con đường giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam.
GSTSKH Vũ Minh Giang (chủ biên), (2008), “Lược sử vùng đất Nam Bộ” NXB TG, Hội khoa học lịch sử Việt Nam, viết về lược sử vùng đất Nam Bộ qua từng giai đoạn từ thời kì vương quốc Phù Nam, Chân Lạp, cho đến khi Nam Bộ thuộ chủ quyền của Việt Nam,ít phân tích sâu các sự kiện, công trình đã cung cấp kiến thức cho người đọc một cách cơ bản, dễ hiểu nhất về lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ. Chưa đi sâu vào giải quyết các vấn đề văn hoá của Phù Nam, nguyên nhân, con đường giao lưu tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và Phù Nam.

Nhìn chung đã có nhiều tác giả viết về Phù Nam với nhiều khía cạnh khác nhau cung cấp cho người đọc nhiều kiến thức cơ bản nhất về lịch sử vương quốc Phù Nam, nhưng nguyên nhân những con đường dẫn đến việc giao lưu và tiếp xúc văn hóa này vẫn chưa có nhiều quyển sách và tạp chí nghiên cứu vấn đề này một cách đúng nghĩa, với sự thiếu sót này tôi xin đi sâu  vào nghiên cứu phân tích nguyên nhân, những con đường nào dẫn đến sự giao lưu và tiếp xúc văn hoa giữa Ấn Độ và Vương Quốc Phù Nam ở Việt Nam trong lịch sử, trên cơ sở tập hợp các tài liệu có liên quan đến vấn đề.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là “con đường giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam ở Việt Nam trong lịch sử”. Và cư dân Phù Nam đã tiếp nhận nó như thế nào. Thực hiện mục đích trên đề tài đi sâu vào và tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
            Điều kiện tự nhiên và sự hình thành vương quốc Phù Nam.
            Nguyên nhân dẫn đến sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam.
            Những con đường giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam.
            Yếu tố bản địa trong quan hệ văn hóa giữa Phù Nam và Ấn Độ.
            Phạm vi nghiên cứu: đề tài đi sâu vào nghiên cứu “Những con đường giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam”. Trong đó có chú ý đến yếu tố bản địa của văn hóa Phù Nam trong quan hệ và giao lưu văn hóa với Ấn Độ.
4. Mục đích nghiên cứu
            Mục đích của đề tài là đi sâu vào tìm hiểu “Những con đường giao lưu và tiếp xúc văn hóa giữa Ấn Độ và vương quốc Phù Nam”. Giúp ta có cái nhìn tổng quát hơn về ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến các quốc gia cổ đại ở Đông Nam Á đặc biệt là vương quốc Phù Nam ở Việt Nam.
            Đề tài góp phần giúp cho thế hệ trẻ đặc biệt là học sinh, sinh viên hiểu sâu sắc hơn về văn hóa Ấn Độ và con đường du nhập của văn hóa Ấn Độ đến vương quốc Phù Nam.
            Đề tài nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy ở trường phổ thông.
5. Phương pháp nghiên cứu
            Với đề tài này làm tôi sử dụng các phương pháp:
            Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp chính trong nghiên cứu, sưu tầm và tra cứu tài liệu từ sách, báo, tạp chí, các nguồn thông tin từ mạng internet, sau đó sắp xếp các tài liệu sự kiện cho hợp logic, đúng với bản chất sự thực lịch sử đã từng diễn ra trong quá khứ.
            Phương pháp logic: tìm ra bản chất quy luật vận động và phát triển của lịch sử dưới dạng tổng quát, thông qua đó phương pháp này sẽ tái hiện lại các hiện tượng các sự kiện lịch sử trong các giai đoạn và thời điểm lịch sừ nhất định, qua đó phân tích và tổng hợp tìm ra bản chất các sự kiện.
Ngoài ra còn các phương pháp bảo trợ khác như: phương pháp sưu tầm tài liệu, phương pháp đọc và nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích tài liệu, so sánh và đối chiếu.
6. Đóng góp của đề tài
            Nếu đề tài nghiên cứu thành công thì sẽ góp phần làm sang tỏ hơn về vấn đề: con đường du nhập của văn hóa Ấn Độ đến vương quốc Phù Nam và những ảnh hưởng của nó đến văn hóa Phù Nam trong lịch sử.
            Mặt khác đề tài nghiên cứu thành công sẽ giúp cho việc nghiên cứu và học tập của  các bạn học sinh, sinh viên và bản thân tôi, tạo thuận lợi cho công tác giảng dạy sau này.
7. Kết cấu của đề tài
            Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài còn có hai chương:
            CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ SỰ HÌNH THÀNH VƯƠNG QUỐC PHÙ NAM TRONG LỊCH SỬ
CHƯƠNG 2: NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐƯA VĂN HÓA ẤN ĐỘ ĐẾN XỨ SỞ PHÙ NAM

PHẦN MỞ DẦU
1. Lý do chọn đề tài
   Chămpa là một vương quốc cổ ra đời khá sớm ở khu vực Đông Nam Á (cuối thế kỷ II sau công nguyên), địa bàn chủ yếu ở vùng Đông Bắc duyên hải miền Trung Việt Nam và một phần cao nguyên Trường Sơn, cư dân - chủ nhân của vương quốc này là người Chăm. Trước đây, gọi là Chàm, Chiêm nói tiếng Malay - Polynesian. Do vị trí quan trọng - án ngữ trên con đường giao lưu quốc tế Đông - Tây, những thuyền bè ngược xuôi trong hệ thống mậu dịch hàng hải Châu Á và quốc tế đều phải dừng chân nơi đây, nên từ rất sớm Chămpa đã có những mối quan hệ rộng rãi, thường xuyên và liên tục với các nước trong và ngoài khu vực, đặc biệt là với Ấn Độ một quốc gia sớm có nền văn minh phát triển rực rỡ nhất Châu Á và thế giới. Trong nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển độc lập, Chămpa đã xây dựng được nền văn hóa đặc sắc mang nhiều dấu ấn của văn hóa Ấn Độ, giống như nhiều nước Đông Nam Á đương thời.
    Điều quan trọng để vùng biển Chămpa xưa được biết đến như một tuyến đường giao thông và sau đó là thương mại và văn hóa không phải chỉ do vị trí tự nhiên của nó, mà chính vì đó là một vùng cư trú của một cộng đồng dân cư có Nhà Nước riêng, thể chế chính trị riêng và đặc biệt là có một nền văn hóa phát triển rực rỡ không thua kém bất cứ một nền văn hóa đương thời nào ở khu vực Đông Nam Á. Hơn 15 thế kỷ tồn tại và phát triển Chămpa đã từng bước xây dựng cho mình một nền văn hóa phát triển rực rỡ và đầy bản sắc văn hóa - Chămpa, đồng thời cũng mang đậm dấu ấn văn hóa Ấn Độ.
     Thế nhưng, là một quốc gia độc lập và có nền văn hóa đặc sắc, phát triển rực rỡ thời cổ - trung đại ở Đông Nam Á, Chămpa đã bị co hẹp dần về mặt lãnh thổ và đến thế kỷ XVII nó đã không còn tồn tại với tư cách là một quốc gia độc lập và thống nhất nữa. Cùng với thời gian tồn tại và sự biến đổi, nhà nước Chămpa suy tàn thì các dấu ấn về chính trị, văn hóa của Ấn Độ cũng bị phai mờ và xóa sạch theo thời gian, chỉ để lại một phần nào dấu ấn sâu đậm của văn hóa Ấn Độ trong dân tộc Chăm và các dân tộc khác ở Việt Nam thông qua các hiện vật, bia kí, đền tháp và một số lễ hội dân gian của dân tộc Chăm hiện nay. Vậy văn hóa Ấn Độ đã có mặt ở Chămpa tử bao giờ? Bằng  những con đường nào? Vai trò và ảnh hưởng của nó đến Chămpa có sâu rộng hay không? Có lấn áp được văn hóa bản địa hay không? Và nó đã để lại những dấu ấn gì sâu sắc trong văn hóa Chămpa?.
Cho đến hiện nay ở nước ta, chưa có nhiều công trình nghiên cứu quy mô về “Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Chămpa ở Việt Nam”, số tác giả nghiên cứu về vấn đề này  ở Việt Nam còn hạn chế. Các bài viết chủ yếu chỉ xuất hiện trên một số tạp chí nghiên cứu, báo… Với dung lượng nhỏ xoay quanh các đề tài về: lễ hội, kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật, lịch sử hình thành và suy vong của vương quốc Chămpa… Nhìn chung “ Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Chămpa ở Việt Nam” hiện nay chưa được các công trình khoa học nào đề căp một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ.
Và trong thực tế thì một thời gian dài cho đến nay, chương trình sách giáo khoa lịch sử ở bậc phổ thông, thậm chí là các giáo trình tài liệu tham khảo ở các bậc cao đẳng, đại học hầu như ít và không hề đề cập đến vấn đề này. Điều đó tạo nên một khoảng trống trong nhận thức mỗi người, nhất là trong giới học sinh, sinh viên hiện nay.
Để đáp ứng và góp phần lý giải phần nào những đòi hỏi trên, chúng tôi mạnh dạng nghiên cứu đề tài “Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Chămpa ở Việt Nam”, để góp phần làm sáng tỏ hiện thực lịch sử và những đánh giá khách quan khoa học về hiện thực lịch sử đã tồn tại và để lại những giá trị văn hóa lịch sử vô cùng quý giá trên lãnh thổ Việt Nam. Đó là lý do chúng em chọn đề tài này để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cuối thế kỷ XIX, những khám phá của khảo cổ học và việc tiếp xúc với bia kí Chămpa đã gây nên sự chú ý của các nhà nghiên cứu về lịch sử Chămpa và những lĩnh vực khác liên quan đến lịch sử. Liên quan đến vấn đề này đã có khá nhiều học giả, nhà sử học, nhà nghiên cứu tốn biết bao thời gian công sức và giấy mực để bàn cãi.
Những học giả người Pháp là những người đầu nghiên cứu lĩnh vực này và mỗi người nhìn nhận ở một góc độ khác nhau. Về ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với Đông Nam Á, G.Coedes đã dành hẳn một chương trong công trình nghiên cứu của mình để nói về quá trình mà ông gọi là “Ấn Độ hóa”  đó là trong tác phẩm “ Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông ” nhà xuất bản thế giới (2008). Theo ông  “Ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ chủ yếu là sự  bành trướng của một nền văn hóa có tổ chức, dựa trên quan điểm Ấn về vương quyền, tiêu biều bằng Ấn Độ giáo hoặc phật giáo, thần thoại Purana, pháp giới Phacmaxastra và lấy tiếng Phạn làm phương tiện biểu đạt”. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu chỉ nhắc đến sự hình thành, phát triền và suy vong cùa các quốc gia Đông Nam Á bị “Ấn Độ hóa”, những ảnh hưởng đó được truyền bá bằng con đường nào, nguyên nhân do đâu… Phần lịch sử Chămpa cũng chỉ được đề cặp đến một phần trong tác phẩm và chỉ chú trọng đến lịch sử chính trị hơn là về văn hóa, và những dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Chămpa cũng chỉ được tác giả trình bày một cách khá sơ khảo, mang tính khái quát, chưa đi sâu vào vấn đề.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về Chămpa không còn là một vấn đề mới mẽ, đã có nhiếu thế hệ học giả quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là trong lĩnh vực khảo cổ học, sử học… Đáng kể là phần lịch sử Chămpa được viết trong cuốn “ Lịch sử vương quốc Chămpa ”, nhà xuất bản đại học quốc gia  Hà Nội (2004) , GS.Lương Ninh đã đề cập đến lịch sử Chămpa khá toàn diện, từ lịch sử thời tiền sử cho đến giai đoạn khủng hoảng và suy vong, từ lịch sử chính trị đến lịch sử kinh tế, văn hóa và xã hội. Tuy nhiên, trong cuốn sách chủ yếu tác gia cung cấp những kiến thức hệ thống và đúng đắn về những sự kiện lịch sử diễn ra trên đất nước Chămpa, nhận thức đúng tiến trình lịch sử và về thành tựu văn hóa của vương quốc Chămpa, chưa đi sâu vào phân tích những dấu ấn sâu sắc của văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa Chămpa.
Trong một tác phẩm khác của GS.Lương Ninh (chủ biên), Đỗ Thanh Bình - Trần Thị Vinh, cũng có đề cập đến phần lịch sử vương quốc Chămpa đó là tác phẩm “ Lịch sử Đông Nam Á ”, nhà xuất bản giáo dục (2005), quyển sách đã trình bày khá chi tiết và toàn diện về lịch sử Đông Nam Á qua các giai đoạn. Tuy nhiên, cuốn sách trình bày đại cương một lịch sử Đông Nam Á, nhưng là một khu vực lịch sử, có mối quan hệ gần gũi, có nhiều “duyên nợ” với nhau, với các sự kiện đồng thời, tương tác giữa cac quốc gia trong khu vực theo lát cắt thời gian, nhưng vẫn giữ tính riêng biệt, tương đối hệ thống của từng quốc gia, từng vùng. Riêng về lịch sử vương quốc Chămpa tác giả chỉ trình bày khái quát tiến trình lịch sử của vương quốc Chămpa từ thời dựng nước đến suy vong, chủ yếu là về lịch sử chính trị, còn về dấu ấn của văn hóa Ấn Độ đối với vương quốc này thì ít được tác giả đề cập đến.
Năm 1995, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội đã cho ra đời tác phẩm “ Việt Nam- Đông- Nam Á: quan hệ lịch sử văn hóa ”, của viện nghiên cứu Đông- Nam Á. Trong tác phẩm có một chuyên đề đề cập đến những yếu tố Ấn Độ có trong văn hóa Chămpa ở Việt Nam của PTS. Ngô Văn Doanh, bài viết đã trình bày khá rõ nét và đầy đủ về những yếu tố  “Ấn Độ” có trong văn hóa Chămpa, nguyên nhân và những con đường đưa văn hóa Ấn Độ đến với xứ sở Chămpa… Tuy nhiên, những dấu ấn đó được đề cập đến trong bài viết còn khá khái quát, chưa đi sâu vào từng lĩnh vực riêng biệt mà văn hóa Ấn Độ đã ảnh hưởng và để lại những dấu ấn sâu sắc trong văn hóa Chămpa.
Liên quan đến vấn đề này cũng có một số tác giả đề cập đến  phần lịch sử Chămpa, như trong quyển “Một số chuyên đề lịch sử thế giới ”, TS. Nguyễn Công Khanh có bài viết về “Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ dối với các quốc gia Đông Nam Á trong lịch sử” , hay GS.Lương Ninh cũng có bài viết về “Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ với văn hóa Đông Nam Á” . Những vấn đề được đặt ra là các bài nghiên cứu chủ yếu nói chung về những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với toàn bộ khu vực Đông Nam Á, còn riêng về Chămpa cũng được đề cập đến nhưng còn mang tính chất sơ khảo chưa đi sâu vào phân tích vấn đề.
Như vậy, việc nghiên cứu Chămpa đã có và khá phong phú. Tuy nhiên, có một điều dễ nhận thấy là chưa có một tác phẩm nào đề cập đến vấn đề dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Chămpa ở Việt Nam một cách hoàn chỉnh và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực. Còn có nhiều khoảng trống trong lĩnh vực nghiên cứu về những dấu ấn mà văn hóa Ấn Độ đã để lại sâu sắc trong văn hóa chămpa. Mặc dù vậy, điểm qua một số công trình nghiên cứu trên, ta thấy cũng đã có nhiều học giả quan tâm đến vấn đề này ở nhiều khía cạnh khác nhau. Dù sao thì những công trình trên cũng đã đóng góp to lớn cho việc nhận diện rõ hơn về văn hóa vương quốc Chămpa dưới góc độ khoa học và là những tài liệu quan trọng vô cùng quý báo để chúng tôi tham khảo học tập và kế thừa trong đề tài nghiên cứu này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài là đi sâu vào tìm hiểu những giá trị mà văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng và để lại cho trong văn hóa Chămpa ở Việt Nam. Giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát, sâu sắc và hiểu đúng hơn về những dấu ấn củavăn hóa Ấn Độ để lại trong văn hóa Chămpa, một nền văn hóa riêng đầy bản sắc, mang đậm dấu ấn của văn hóa Ấn Độ.
Ngoài ra đề tài còn góp phần phục vụ tốt cho công tác giảng dạy và nghiên cứu của chúng tôi ở trường phổ thông sau này.
4. Đối tượng và  phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào tìm hiểu những dấu ấn của văn hóa Ấn Độ có trong văn hóa Chămpa.
Bản thân vấn đề đã tạo nên sự giới hạn nhất định cho đề tài, là chỉ nghiên cứu “Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ có trong văn hóa Chămpa ở Việt Nam”. Bởi vì văn hóa Ấn Độ không chỉ ảnh hưởng và để lại những dấu ấn sâu sắc trong riêng văn hóa Chămpa, mà nó còn ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia khác ở khu vực Đông Nam Á mà văn hóa của nó đã đi qua.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp phân tích, tổng hợp…
6. Đóng góp của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài làm sáng tỏ những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa Chămpa thời cổ- trung đại. Qua đó, sẽ thấy được những yếu tố bản địa trong quan hệ văn hóa giữa chămpa và Ấn Độ. Góp phần làm phong phú thêm nguồn sử liệu cho công tác giảng dạy sau này về vương quốc Chămpa.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài còn có hai chương:
Chương I: Văn hóa Ấn Độ và quá trình ảnh hưởng
Chương II: Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Chămpa 
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Văn hóa Ấn Độ và quá trình ảnh hưởng            
 1.1. Nguồn góc và các yếu tố cấu thành
            Ấn Độ là một quốc gia nằm ở Nam Á, diện tích đứng thứ bảy và dan số đứng thứ hai trên thế giới. Tên gọi Ấn Độ - India, Hindustan là do người Ba Tư và người phương Tây từ thời cổ xưa gọi xứ này theo tên của sông Ấn (Indus), còn tên gọi truyền thống mà cư dân Ấn Độ gọi đất mình là Bharat, nghĩa là đất nước của vị tổ tiên truyền thuyết Bharata.
             Địa hình của tiểu lục địa Ấn Độ chia làm ba miền tự nhiên khác nhau: vùng núi Himalaya; vùng sông Ấn - Hằng và cao nguyên Đêcan. Địa hình chia cắt là nguồn gốc phân tán Ấn Độ thành các tiểu quốc từ xa xưa. Sự đa dang của Ấn Độ còn thể hiện ở các mặt xã hội, dân tộc ngôn ngữ, tôn giáo… sự phân tán về chính trị. Tuy vậy, sự đa dạng, phức tạp của Ấn Độ từ thời xa xưa vẫn được xem như trong một thể thống nhất. 
             Ngoài nguồn gốc lịch sử như đã nói ở trên, văn minh Ấn Độ còn được cấu thành bởi những yếu tố khác.
             Nền văn minh trên bán đảo Ấn Độ phát triển một cách đều đặn lạ thường từ thời Môhengiô - Đarô cho đến ngày nay một xứ sở mà nền văn minh đã có từ bao đời trước khi có người phương tây đến “khai phá”.
             Nền văn minh Ấn Độ được cấu thành bởi các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội mà từ đó tạo ra đời sống văn hóa tinh thần sau:
                  Đời sống kinh tế: Ấn Độ có truyền thống chủ yếu dựa vào nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp – kinh tế nông nghiệp. người dân Ấn thường vất vả với ba vụ gặt chính cùng ba loại cây ngũ cốc riêng. Ấn Độ còn là nước có truyền thống lâu đời về thủ công nghiệp, ngay từ thời Harappa, Mônhegiô– Đarô đã có một số nghề thủ công nối tiếng nhất của Ấn Độ. Người Ấn cũng nổi tiếng về nghệ thuật làm đồ trang sức. Về thương nghiệp, ngay từ thời cổ xưa Ấn Độ đã phát triển thương nghiệp nội địa, ngoại thương.
                     Đời sống chính trị -  xã hội: nét nổi bật của xã hội Ấn Độ cổ đại là chế độ đẳng cấp và công xã nông thôn. Tế bào cơ sở của xã hội Ấn Độ truyền thống là cộng đồng làng xã. Đây là một thiết chế kinh tế - xã hội xuất hiện từ sớm và được duy trì qua suốt các thời kì lịch sử.
                       Sự tồn tại bền vững của công xã đã làm hạn chế đến sự phát triển của kinh tế hàng hóa, đống khung sự hiểu biết của thành viên công xã trong phạm vi nhỏ hẹp của công xã, thờ ơ với vận mệnh của đất nước, cố giữ lấy các tập tục cổ làm cho xã hội phát triển chậm. Tuy nhiên, chính cộng đồng làng xã Ấn Độ là một trong những yếu tố quan trọng làm cho nước này giữ được bản sắc truyền thống văn hóa cổ xưa.
                    Chế độ đẳng cấpVacna : không ở đâu trong các quốc gia cổ trung đại, sự phân cách về dòng họ, tổ tiên, tôn giáo, nghề nghiệp lại sâu sắc và khắc nghiệt như ở Ấn Độ, đó là chế độ chủng tính Vacna – hình thức sơ đẳng của chế độ đẳng cấp. thoạt đấu Vacna được dựa trên cơ sở phân biệt màu da. Dần dần trong xã hội Ấn Độ đã hình thành một hệ thống Vacna với bốn đẳng cấp chính:
     Đẳng cấp quý tộc tăng lữ Balamôn (Brahman)
     Đẳng cấp ksatơria, gồm quý tộc, vương công, võ sĩ
     Đẳng cấp bình dân Vaisia gồm hầu hết người bình dân Aryan
     Đẳng cấp Suđra là cư dân bản đia bị người Aryan chinh
     phục[lsvnm,86].
Ngoài bốn đẳng cấp chính còn có một số đằng cấp bị coi là thấp hèn nhất như Pari, Chandala…
                  Gia đình : tế bào cơ sở của xã hội Ấn Độ truyền thống là gia đình, vào đầu thời kì Vêđa, địa vị của phục nữ được coi trọng. Về sau do sự phát triển của xã hội mà vị trí đàn ông đã được đề cao hơn và ngày càng được củng cố bởi các quan niệm tôn giáo. Một số lớn gia đình Ấn Độ là gia đình đồng tộc gồm bố mẹ, anh, chị, con cháu nội ngoại, đầy tớ … Đó là loại gia đình phụ hệ có quyền lực rất lớn của người đàn ông. Sau nữa do ảnh hưởng của đạo Hồi mà vị trí của người phụ nữ càng suy giảm.
               Về chế độ nhà nước : Lịch sử Ấn Độ từ khi có nhà nước đều theo chính thể quân chủ, cha truyền con nối. Về nguyên tắc, nha vua nắm quyền hành cao nhất, có quyền lực tuyệt đối, có nhiệm vụ cai trị đất nước bằng sự công bằng, nhân từ và chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài . Ngoài ra, còn có các nước nhỏ theo chính thể “cộng hòa” mà thực chất là phát triển thể chế dân chủ thị tộc.   
1.2. Một số thành tựu của văn hóa Ấn Độ
            1.2.1. Chữ viết
Chữ viết đầu tiên ở Ấn Độ được sáng lập từ thời văn hóa Harappa. Tại các di chỉ thuộc nền văn minh lưu sông Ấn đã phát hiện được hơn 3. 000 con dấu khắc chữ đồ họa [ ,73].
Đến khoảng thế kỉ V TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ khác gọi là chữ Kharosthi. Đây là loại chữ phỏng theo chữ viết của vùng Lưỡng Hà. Sau đó xuất hiện chữ Brami, một loại chữ được sử dụng rộng rãi. Các văn bia của Axôca đều viết bằng loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn Độ lại đặt ra chữ Đêvanagari có cách viết đơn giản thuận tiện hơn. Đó là thứ chữ mới để viết tiếng Xanxcrit. Đến nay ở Ấn Độ và Nêpan vẫn dùng loại chữ này [ ,73].
1.2.2. Văn học
Ấn Độ là một nước có nền văn học rất phát triển. Thời cổ đại văn học Ấn Độ gồm hai bộ phận quan trọng là Vêđa và sử thi:
 Vêđa: vốn nghĩa là hiểu biết. Vêđa có 4 tập là Rich Vêđa, Xama Vêđa, Yariua Vêđa và Atácva Vêđa. Ba tập Vêđa trên gồm những bài ca và những bài cầu nguyện phản ánh tình hình người Arya tràn vào Ấn Độ, tình hình tan rã của chế độ thị tộc, tình hình cư dân đấu tranh với thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt. Trong đó, Rich Vêđa với 1028 bài thơ là tập quan trọng nhất. Còn Atácva Vêđa chủ yếu bao gồm các bài chú nhưng nội dung mà tập Vêđa này đề cập đến gồm các mặt như chế độ đẳng cấp, việc hành quân, chữa bệnh, đánh bạc và cả tình yêu nữa.[lsvm,74].
Kế tiếp theo 4 tập Vêđa và có liên quan với Vêđa còn có các tác phẩm Bramana (Phạn thư), Araniaca (sách rừng rậm), Ypanisat (sách nghĩa sâu)… Những sách này đều viết bằng văn xuôi, nội dung bao gồm những bài cầu nguyện, thần chú, những nghi thức cúng bái, những bài thuyết pháp, những lời giải thích triết lí trong kinh Vêđa chứ về văn học thì không có gì đáng kể.
Sử thi: Ấn Độ có hai bộ sử thi rất đồ sộ là Mahabharata và Ramayana. Hai bộ sử thi này được truyền miệng từ nửa đầu thế kỉ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỉ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Xanxcrit. Mahabharata có 18 chương và một chương bổ sung tài liệu, gồm 220. 000 câu. Đây là bộ sử thi dài nhất thế giới so với cả hai bộ Iliat và Ôđixê của Hy Lạp cổ đại gộp lại còn dài hơn 8 lần. Chủ đề của tác phẩm này là cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ. Bởi vậy tập thơ lấy tên là Mahabharata nghĩa là “cuộc chiến tranh giữa con cháu Bharata”. Còn Ramayana có VII chương, trong đó chương I và chương VII về sau mới thêm vào, gồm 48. 000 câu. Chủ đề của tác phẩm này là “câu chuyện tình duyên giữa hoàng tử Rama và người vợ chung thủy Sita”[lsvm,75,76].
Hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana là những công trình sáng tác tập thể của nhân dân Ấn Độ trong nhiều thế kỉ và là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ trong hai ngàn năm nay.
Ngoài văn học tiếng Xanxcrit ra, còn có những tác phẩm viết bằng các thứ ngôn ngữ khác, trong đó trước hết cần phải kể đến các tác phẩm viết bằng tiếng Pali về chủ đề Phật giáo.
        1.2.3. Tôn giáo
Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiếu tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là đạo Bàlamôn về sau là đạo Hinđu và đạo Phật. Ngoài ra còn có một số đạo khác như đạo Jain, đạo Xich…
  Đạo Bàlamôn: Trong thời kì đầu của thời kì Vêđa, quan niệm tín ngưỡng của người Ấn Độ còn mang nhiều dấu vết của người nguyên thủy. Họ tin rằng vạn vật đều có linh hồn nên họ sùng bái rất nhiều thứ, sùng bái các hiện tượng tự nhiên, người chết và nhiều loài động vật… Đến những thế kỉ đầu của thiên kỉ I TCN, do sự phát triển của xã hội có giai cấp và do sự không bình đẳng về đẳng cấp ngày càng sâu sắc, từ các hình thức tín ngưỡng dân gian dần dần đã tập hợp thành nột tôn giáo lớn gọi là đạo Bàlamôn. Như vậy, đạo Bàlamôn là một tôn giáo không có người sáng lập, không có tổ chức giáo hội chặt chẽ.
Đạo Bàlamôn là một tôn giáo đa thần trong đó cao nhất là thần Brama. Trong giáo lí của đạo Bàlamôn có một nội dung rất quan trọng, đó là thuyết luân hồi. Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn cũng là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ[lsvm;86].
Đạo Bàlamôn đã truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ trong nhiều thế kỉ. Đến khoảng thế kỉ VI TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một tôn giáo mới là đạo Phật. Đạo Bàlamôn bị suy thoái trong một thời gian dài.
   Đạo Hinđu (Ấn Độ giáo): Sau một thời gian hưng thịnh, đến khoảng thế kỉ VII, đạo Phật bị suy sụp ở Ấn Độ. Nhân tình hình đó, đạo Bàlamôn dần dần phục hưng đến khoảng thế kỉ VIII, IX đạo Bàlamôn đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế lễ… từ đó đạo Bàlamôn được gọi là đạo Hinđu, trước đây ta hay gọi là Ấn Độ giáo.
Kinh thánh của đạo Hinđu ngoài các tập Vêđa và Upanisat còn có Mahabharata, Bhagavad Gita, Ramayana và Purana. Đạo Hinđu cũng chia thành hai phái là phái thờ thần Siva và phái thờ thần Visnu. Sau khi phục hưng, đạo Hinđu được các vương công Ấn Độ ra sức ủng hộ, do đó đã xây dựng nhiều ngôi chùa nguy nga và ban cấp cho rất nhiều ruộng đất, có khi lên đến hàng nghìn làng.
Về tục lệ đạo Hinđu cũng hết sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp. Đến thời kì này, do sự phát triển của các ngành nghề, trên cơ sở bốn đẳng cấp cũ (varna) đã xuất hiện rất nhiều đẳng cấp nhỏ mới gọi là jati.
Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thời kì đạo Phật thịnh hành, đạo Bàlamôn- đạo Hinđu là tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Tôn giáo này còn truyền bá sang một số nước Đông Nam Á, đặc biệt là Campuchia thời Ăngco về trước.
  Đạo Phật (Buddhism): là tôn giáo thế giới xuất hiện sớm nhất đã và đang đóng vai tro quan trọng trong lịch sử các dân tộc châu Á. Quê hương của đạo phật là một sứ sở nhỏ ở Đông Bắc Ấn Độ. Từ khi xuất hiện (vào thế kỉ VI TCN) cho đến nay đạo phật đã được truyền bá tới hầu hết các nước Đông Á và Đông Nam Á. Tuy nhiên, chính tại quê hương của đạo Phật, số phật tử chỉ chiếm tỉ lệ chưa đến 1%,đạo Phật suy dần ở Ấn Độ, nhưng lại được phát triển ở phần lớn châu Á và đã trở thành quốc giáo của một số nước như: Xri Lanca, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia
         Đạo Giaina (Jainism): Đạo Giaina hay còn gọi là đạo thiền do Mahavina sáng lập vào thế kỉ VI TCN, cùng thời với sự ra đời của đạo Phật. Về sự tích ra đời và giáo lý cơ bản, đạo Jiraina khá giống đạo Phật. Giaina giáo đặt biệt đề cao Ahimsa ( không mưu hại sinh linh) và sống theo chủ nghĩa khổ hạnh
         Đạo xích (Skhism): Đạo xích ra đời trên cơ sở kết hợp đạo Hinđu và đạo hồi. Người đứng đầu tôn giáo này là pháp sư Guru. Trong lịch sử đạo xích chỉ mình Guru. Guru thứ 10 thành lập một đạo quân tôn giáo để chống lại sự đàn áp của Hồi giáo. Trong mấy thế kỉ tồn tại,tính đồ đạo xích thường bị lợi dụng (người Anh, các thế lự phản động…), gây nhiều hoạt động khủng bố ám sát v.v…
1.2.4. Nghệ thuật
Thời cổ trung đại, Ấn Độ đã có một nền nghệ thuật phong phú đặc sắc bao gồm nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là các ngành kiến trúc điêu khắc. Thời Harappa, nhà cửa chỉ mới xây bằng gạch, đến thời vương triều Môrya, nghệ thuật kiến trúc đá mới phát triển mà các công trình tiêu biểu là cung điện, chùa, tháp, trụ đá…[lsvm ,80].
Đến thời Xutan Đêli và thời Môgôn, cùng với việc đạo Hổi trở thành quốc giáo,ở Ấn Độ xuất hiện nhiều công trình kiến trúc mới  xậy dựng theo kiểu Trung Á và Tây Á. Đó những nhà thờ Hồi giáo, cung điện, lăng mộ mà đặc điểm chung của kiến trúc này là mái tròn,cửa vòm, có tháp nhọn. Công trình tiêu biểu nhất của thời Môgôn là lăng TajMahan được xây dựng vào cuối thế kỉ XVII.
Về nghệ thuật tạo hình, vì đạo Phật trong thời kì đầu phản đối việc thờ thần tượng và hình ảnh, nên nghệ thuật tạc tượng bị hạn chế trong một thời gian dài. Mãi đến khi Phật giáo Đại thừa ra đời, chủ trương đó mới thay đổi, do vậy tử thế kỉ I về sau, tượng Phật mới được tạo nên ngày một nhiều, trong đó tiêu biểu nhất là pho tượng bằng đá ở Ganđara [ ,81].
Ngoài tượng Phật còn có các tượng thần đạo Hinđu như tượng thần Visnu, thần Siva… Các tượng thần đạo Hinđu thường được thể hiện dưới hình tượng nhiều đầu nhiều mặt nhiều tay và nhiều khi có hình thù rất đáng sợ.
Nói chung nghệ thuật tạo hình Ấn Độ phần lớn nhằm vào chủ đề tôn giáo, nhưng vì bắt nguồn từ thực tế nên tính hiện thực vẫn thể hiện rất rõ, ví dụ tượng nhiều tay nhiều đầu là phỏng theo tư thế của các đội múa trong chùa và cung đình.
1.2.5. khoa học kĩ thuật
Trong quá trình đấu tranh cải tạo thiên nhiên, phục vụ cho đời sống kinh tế xã hội Ấn Độ truyền thống, nhiều thành tựu khoa học kĩ thuật đã ra đời. Tuy nhiên, ngay từ đầu, các ngành khoa học mới như: thiên văn, toán học, y dược… đều bị ràng buộc hết sức nặng nề bởi các quan niệm tôn giáo.
Ngoài các ngành nói trên, người Ấn Độ còn nhiều hiểu biết về các môn Hóa học, Sinh học, Nông học… do đó đã phục vụ đắt lực cho các lĩnh vực khoa học khác và các nghề thủ công như luyện thép, nhộm, thuộc da…

           1.3. Qúa trình lang tỏ và thâm nhập của văn hóa Ấn Độ đến với khu vực Đông Nam Á
                      Chính người Ấn Độ đã biết đến Đông Nam Á từ rất sớm. Sử thi Ramayana của Ấn Độ đã nói tới xứ Java và Sumatra. Arhasatra do Kautylia soạn thảo bắt đầu từ thế kỉ IV TCN đã nói tới xứ đất vàng (Suvarnabhumi), Đảo vàng (Suvarnadvipa), để chỉ miền đất Đông Nam Á phía Đông Ấn Độ. Tài liệu thời muộn hơn Sasanavamsaappadipika cũng cho biết vua Asoka (thế kỷ III TCN) đã cử tới ba đoàn truyền giáo do các vị cao tăng Gavampti, Sona và Utara đi truyền bá Phật giáo đến xứ đất vàng (Suvarnabhumi) tức đến Thatin và vùng Nam sông Sittang (Myanmar).
                       Tại lưu vực sông Mê Nam, người ta đã tìn thấy bằng chứng về điêu khắc và kiến trúc kiểu Phật giáo Amaravati. Có thể kể thêm những hiện vật tìm thấy ở Óc Eo (Nam Bộ, Việt Nam), tượng Phập ở Đồng Dương (Quảng Nam), ở Sumatơra… tóm lại có nhiếu bằng chứng cho thấy có sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến Đông Nam Á từ những thế kỷ TCN.
                       Nguyên nhân thúc đẩy sự lan rộng mạnh mẽ của văn minh Ấn Độ đến Đông Nam Á nói chung và Chămpa nói riêng, trước hết là do sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng của cơ tầng văn hóa nông nghiệp cổ xưa, sự giống nhau về phong tục tập quán, văn hóa dân gian, các di tích khảo cổ. Tiếp đó là do nhu cầu tìm sản vật địa phương và địa bàn buôn bán mới. Việc các lái buôn Ấn Độ thi nhau tìm vàng ở vùng này đã đẩy nhanh tốc độ giao lưu giữa hai khu vực. Hơn nữa, sự phát triên giao lưu nói trên lại được điều kiện vật chất kỹ thuật cho phép,đó là nhờ tiến bộ của kỹ thuật hàng hải.
                  Như vậy, một nền kinh tế đang phát triển mở rộng và tìm kiếm thường xuyên thị trường xa, cùng với nó là sự phát triển là của hàng hải là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự lan rộng của văn hóa Ấn Độ đến Đông Nam Á.
                  Một nguyên nhân đáng kể nữa là do sự phát triển cao của văn hóa Ấn Độ, của các tôn giáo nhất là Phật giáo. Nhờ tinh thần truyền giáo và không có thành kiến chủng tôc, Phật giáo đã mở đường cho người người Ấn Độ  đến Đông Nam Á. Các tôn giáo khác cũng phát triển thuận lợi ở “vùng đất mới”. Dần dần cản trở tâm lý đối với việc “xuất dương” mất đi và trong số những người Ấn Độ đến Đông Nam Á giai đoạn đầu người ta còn thấy có cả các tu sĩ Bàlamôn.
                  Như vậy, nguyên nhân chính của việc truyền bá văn hóa Ấn Độ ra bên ngoài là do hoạt động của các thương nhân, thủy thủ và sự truyền bá tôn giáo ở miền ngoại Ấn và sự tăng trưởng giao lưu kinh tế đã kéo theo việc đẩy mạnh giao lưu văn hóa giữa Ấn Độ với Đông Nam Á, trong đó có Champa
                  Ở những nơi thuận lợi, từ các tổ chức kinh tế sơ khởi đã hình thành quốc gia chính trị có tổ chức. Các quốc gia Đông Nam Á loại này được các học giả phương tây gọi là các quốc gia “Ấn Độ hóa”.
                   Vậy thực chất của của công cuộc “Ấn Độ hóa” là gì? Đây không phải là một cuôc xâm lược bằng vũ lực để chiếm đất đại, di dân lập ấp, mà đó là một sựu thâm nhập hòa bình không có kế hoạch vạch ra từ đầu. Các quốc gia “Ấn Độ hóa”  đó lại không lệ thuộc gì đến Ấn Độ, mà chỉ duy trì các mối liên hệ văn hóa và văn minh chung, quan hệ bình đẳng đối với Ấn Độ. Tuy nhiên, kết quả của sử thâm nhập đó hết sức lớn: đó là sự truyền bá rộng rãi của văn minh Ấn Độ sang khu vực Đông Nam Á, nói chung Champa noi riêng gớp phần đẩy mạnh quá trình lan tỏ của chế độ công xã nông thôn và quá trình hình thành xã hội có giai cấp và nhà nước đầu tiên ở đây. Đồng thời, ảnh hưởng đó còn tiếp tục tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử của các nước Đông Nam Á nhất là Champa.           
      Chương II: Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Chămpa
           2.1. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa Chămpa – những biểu hiện
             2.1.1. Tôn giáo, tín ngưỡng
             Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo lớn trên thế giới, trong đó quan trọng nhất là Bàlamôn về sau là Hinđu giáo và Phật giáo. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jain, đạo xích. Bàlamôn giáo sớm được truyền bá vào Đông Nam Á- Chămpa một thời kì dài độc tôn làm quốc giáo. Người Ấn Độ dù là tăng lữ hay thương nhân cũng mang đến Đông Nam Á trước tiên là tôn giáo, tín ngưỡng  của họ. Có lẽ sự truyền bá tôn giáo là phương tiện thuận lợi nhất để cảm hóa hóa văn hóa với bản địa.
   Nếu như ở Ấn Độ Bàlamôn  chia ra thành bốn đẳng cấp rất chặt chẽ, thì Champa chế độ đẳng cấp này rất mờ nhạt. Vì Bàlamôn giáo không những là quốc giáo mà còn là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, tôn giáo của đẳng cấp trên. Do vậy, Bàlamôn giáo chỉ ảnh hưởng trong cung đình, dòng dõi quý tộc mà thôi.
   Champa tiếp nhận tư tưởng Bàlamôn giáo của Ấn Độ kết hợp với tín ngưỡng địa phương làm cho sắc thái của tôn giáo có sự biến sắc rõ ràng.
   Trong ba vị thần tối cao của Bàlamôn giáo là Braman, Siva, Visnu, thì thần Siva được coi trọng hơn cả, thể hiện qua vị trí nơi đặt tượng thần, thường là gian điện chính, nơi trung tâm, điều này thấy rõ ở các đền tháp Champa.
   Đồng thời thần Siva cũng được hòa với tín ngưỡng cổ truyền của người Chăm. Họ tạc những ngẫu tượng Linga – Siva hoặc kết hợp thần Siva và vợ là Uma ngẫu tượng Siva – Uma vừa có râu vừa có vú.
           Đạo phật du nhập vào Champa vào thế kỉ IX, X thuộc dòng Đại thừa. Nhiều chùa phật ra đời cùng những văn bia nói về giáo lý nhà Phật. Điều đáng chú ý là các đền chùa Ấn giáo, Phật giáo điều được vua ban cả một vùng đất rộng bao quanh, có nô lệ dân thường phục vụ, vào khoảng thế kỉ VI, Hồi giáo cũng được du nhập nhưng không phát triển. Trong nhân dân tín ngưỡng cổ truyền còn lại trong tục thờ Linga (dương vật), Yoni (âm vật) và lưỡng thần Linga – Yoni. Ngoài ra kết hợp với việc thờ vợ Xiva, người Chăm dựng lên tục thờ thánh mẫu Yan Pu Nagara. Người Chăm cũng giữ tục thờ tổ tiên. Đối với người chết thì thường hỏa táng, lấy tro xương bỏ vào một cái vò bằng đất nung, đậy chặt và ném xuống biển khi vua chết, vợ thường bị hỏa táng theo. Trong sinh hoạt thường ngày, người Chăm thường ở nhà sàng, quan và dân đều chảy chiếu trên sàng để ngủ, đi chân đất.  Giày dép chỉ giành cho vua quan. Trang phục đơn giản, thường lấy vải quấn quanh mình “nam nữ đều quấn ngang tấm vải cát bối từ lưng xuống đến chân gọi là can man”. Họ cũng rất thích trang sức các loại hoa tay, dây chuyền, vòng tay. Hôn nhân một vợ một chồng phổ biến. Có tục “ nữ đi hỏi rễ”, người làm mối thường là một Bàlamôn. Tháng tám là mùa cưới. 
Tôn giáo Ấn Độ ảnh hưởng khá mạnh mẽ ở Chămpa từ niềm tin, tư tưởng, tư duy về kĩ thuật, đến trang phục đời thường. Dĩ nhiên cũng bị dân gian hóa nhiều nên trở thành bản sắc riêng của Champa.
Bên cạnh niềm tin  vào các vị thần Ấn Độ, người Chămpa còn thờ phụng nhiều vị thần khác có nguồn gốc siêu nhiên hay những công thần khai quốc. Việc nhân thần hóa được thờ phượng cùng với các thần linh Ấn Độ là điều hiếm hoi chỉ thấy ở Champa.
            Như thế ta có thể suy luận rằng sự xâm nhập khá sớm của văn hóa Ấn Độ - Tôn giáo tín ngưỡng đã để lại những dấu ấn hết sức sâu sắc trong nền văn hóa Chămpa và cả tộc người Chăm ở Việt Nam hiện nay.
              2.1.2. Chữ viết
              Ấn Độ là một quốc gia có chữ viết ra đời từ rất sớm. Chữ viết đầu tiên  Ấn Độ sáng tạo từ thời văn hóa Harappa , đên khoảng thế kỉ V TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ khác Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏng theo chữ viết vùng Lưỡng Hà. Sau đó lại xuất hiện chữ Brami, một loại chữ được sử dụng rộng rãi. Các loại văn bia của Asoca đều viết bằng loại chữ này. Trên cơ sỡ chữ Bram người Ấn Độ lại đặt ra chữ Davanagari có cách viết đơn giản thuận tiện hơn. Đến nay ở Ấn Độ và Nêpan vẫn dùng loại chữ này [lsvmtg,73]. Như vậy, nền văn minh Ấn Độ đã sáng tạo ra ít nhất là bốn loại chữ viết khác nhau để sử dụng cho việc ghi chép và lưu trữ thông tin hàng ngày.
              Đối với Chămpa cũng vậy, chữ viết cũng là một nhu cầu bức thiết hàng đầu, không chỉ là cần phải ghi lại những giấy tờ mệnh lệnh, “công văn” của nhả nước, mà còn phải nghi chép kinh kệ để đọc, ghi chép những biên kê những đều cần thiết khi giao dịch… Chămpa sớm tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ, nên đã tiếp nhận được văn tự Ân Độ ngay từ những ngày đầu lập quốc. Ban đầu cư dân Champa chưa có chữ viết, họ học chữ cổ Ấn Độ chủ yếu là chữ  phạn, Sanskrit. Một đặc điểm nổi bậc của chữ viết Chămpa là khắc trên bia đá, nội dung bia kí thường phản ánh việt dâng tế thần linh, tường thuật lại những biến cố đã xảy ra đối với vương triều, ca ngợi công đức của thần linh và bật minh vương tiền nhiệm.
  “Bia vào loại nhất là bia Võ Cạnh ở Nha Trang, thuộc một xứ ở Nam Champa và việc đoán định niên đại dù có đẩy muộn cũng phải coi là cuối thế kỉ III (J.Filiozat 1968). Đây là một tâm bia “khổng lồ” cao 2m50 , khắc chữ trên 2 mặt liền, không phân biệt AB, dài khoảng 15 dòng mỗi dòng có 5 đến 6 chữ khoảng 30 âm tiết, chữ cổ, văn cồ song đã khá hoàn chỉnh, cho biết về một triều vua Sri Mara, tôn thờ Hinđu giáo, tin vào sự phù du của cuộc sống trần gian, vui vì việc thiện, phân phát của bố thí cho mọi người”[l.ninh,19].
       Sự biến đổi từ dạng trên các văn minh từ bia Võ Cạnh (Nha Trang) đến Hòn Vụt (duy xuyên) diễn ra hấu như đồng thời với các diễn biến lịch sử ở Ấn Độ. Điều này cho thấy vẫn có một mối liên hệ mật thiết, giao lưu thường xuyên và liên tục giữa Champa và Ấn Độ.
      Sau thế kỉ XV, người Chămpa không viết chữ lên bia đá nữa mà viết trên  những vật liệu khác như giấy, tre, vải, da…
  Nói đến chữ viết Chămpa là nói đến chữ Akhar Thrah, một loại chữ được dùng phổ biến cho đến ngày này vẫn còn lưu truyền.
Từ chữ Akhar Thrah, người Chămpa đã biến hóa thêm nét thành nhiều chữ viết khác nhau, có chức năng sử dụng vào những mục đích khác nhau.
Đó là :
Akhar Yok : chữ bí ẩn
     Akhar Atwơr : chữ treo, chữ tắt.
     Akhar Kalimưng : chữ con nhện, chữ thấu.
     Ngoài ra còn có chữ chỉ thấy trên bia kí là :
        Akhar Hayap
        Akhar Rik
Tất cả các kiểu chữ và biến thể Akhar (chữ viết) đó điều bắt nguồn từ một trong những chữ viết ở miền Nam Ấn Độ thuộc hệ văn tự Brami.
Qua những lần biến thể chữ viết ngày càng phù hợp với âm tiết của tiếng Champa . Sự tiếp nhận văn tự Ấn Độ để tạo nên Akhar Thrah là một bước phát triển mới của lịch sử ngôn ngữ Champa. Bởi vì, người Ấn Độ nếu không có sự hướng dẫn cần thiết sẽ không đọc được Akhar Thrah.
     Trên cơ sở chữ phạn và lấy dạng nét cong của chữ phạn, người Chăm đã xây dựng thành một hệ thống văn tự Chăm cổ để ghi chép tiếng nói của mình, gồm 16 nguyên âm, 31 phụ âm, khoảng 32 dấu âm sắc và chính tả [cnvm,65].
                Như vậy thông qua di tích,những hiện vật nhất là bia kí là những bằng chứng đầy thuyết phục về những dấu ấn rất sâu đậm và rất xưa của chữ viết Ấn Độ đối với chữ viết Chămpa.
              2.1.3 Văn học
              Ấn Độ có hai bộ sử thi rất đồ sộ Mahabharata và Ramayana. Hai bộ sử thi này được truyền miệng từ đầu thiên niên kỉ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỉ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Sanskrit [VDN,75].
                 Người Chămpa đã đón nhận hai bộ sử thi theo cách tư duy của họ và phù hợp với tâm lí của cộng đồng. Văn học Champa khá phát triển với nhiều thể loại phong phú như : Thần thoại, sử thi, truyện cổ, thơ ca, văn xuôi, văn vần…
 Thơ ca Chămpa rất dồi dào âm điệu, nội dung trữ tình và thường là thơ lục bát gieo vần lục tứ và bát lục. Bên cạnh văn học viết, văn học dân gian của người Chăm cũng khá phát triển dưới nhiều thể loại và phản ánh nhiều nội dung về tâm lí dân tộc và các khía cạnh xã hội.
Đặc điểm của văn học thành văn của Chămpa là phản ánh thời cuộc, khắc họa nhiều mặt của đời sống xã hội, ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình yêu gia đình và quê hương. Nhưng các tác phẩm có giá trị cao về nghệ thuật và nội dung thường khuyết danh người sáng tác. Điều này, nói lên các tác phẩm đó là do quá trình sáng tác của cả cộng đồng và qua các thế hệ nối tiếp cùng tham gia sáng tác.
 Những bản trường ca anh hùng cũng khá phong phú, được sáng tác liên tục, phổ biến rộng rãi và lưu truyền đến ngày nay. Bên cạnh việc tiếp nhận văn học Ấn Độ trực tiếp vào những thời điểm Hindu giáo ảnh hưởng sâu sắc. Sau này, dòng chảy của văn học Ấn Độ vẫn đến được với Chămpa qua trung gian là Malaysia, một quốc gia cũng ảnh hưởng văn minh Ấn Độ.
Dĩ nhiên khi đến Chămpa, những dòng tư tưởng cũng có khác để phù hợp, với cuộc sống và sinh hoạt Chămpa. Đó là những thể loại văn học dân gian, với những bài hát lễ, hát giao duyên, những kinh văn, bài xướng ca được biểu diễn vào dịp lễ quan trọng liên quan đến Hindu giáo.
               Qua sự phát triển của văn học Chămpa, ta có thể thấy nền văn hóa Ấn Độ đã ảnh hưởng rất nhiều và sâu sắc vào các thể loại sáng tác của văn hóa Chămpa, đặt biệt là hai bộ sử thi Marabharata và Ramayata.
               2.1.4. Nghệ thuật:( kiến trúc và điêu khắc)
                 Thời cổ trung đại Ấn Độ đã có một nền nghệ thuật phong phú đặc sắc, bao gồm nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là ngành kiến trúc, điêu khắc. Thời Harappa, nhà cửa chỉ mới xây bằng gạch, đến vương triều Morya nghệ thuật kiến trúc đá mới bắt đầu phát triển mà các công trình tiêu biểu là cung điện, chùa tháp, chùa tháp, trụ đá (Vũ Dương Ninh 80).
                 Khi các tôn giáo Ấn Độ, vượt biên giới qua các eo biển mà truyền qua Tích Lan, Java, Cao Miên, Thailand, Mianmar, Tây Tạng, Khotan, Turkestan, Mông Cổ, Trung Hoa thì nghệ thuật Ấn Độ cũng lan tràn theo vào các xứ đó. Chămpa cũng đón nhận dòng chảy của nền văn minh Ấn Độ từ biển đông. Một điều dễ nhận thấy kiến trúc đi cùng với tôn giáo. Hầu hết, các công trình kiến trúc ở Chămpa đều phục vụ cho nhu cầu tôn giáo, dù cho những tác phẩm điêu khắc, kiến trúc đạt được giá trị  mỹ thuật cao so với đương đại cũng đều nói lên đề tài tôn giáo.
 Tiêu biểu cho kiến trúc Champa là Tháp chăm, nhất là vùng phía Nam, có ít nhiều mang dáng vẻ Ấn Độ và Chămpa khiến nhiều người lầm tưởng đó là Tháp của Khơme. Tuy nhiên, tháp Chăm có dáng dấp độc đáo hơn nó không giống hoàn toàn với bất kỳ tháp Hinđu giáo ở bất cứ nơi nào. Đó là tháp xây bằng gạch khổ lớn trên nền sa thạch hồng và đá granit xanh, nhiều tháp không xây ở chỗ quá cao mà ở giữa đồng quê, gần nơi ở của dân. Có thể nói Chămpa là bật thầy về kĩ thuật chế tác gạch, trải qua bao thế kỉ, những Tháp gạch Chămpa vẫn còn tươi rối, màu sắc ánh hồng, vàng, kết dính với nhau kì lạ mà nhiều nhà khoa học còn chưa thể giải mã hết được.
Tháp Chămpa thường gồm 3 tầng, tầng trên cùng là đặt các vị thần quốc giáo, tầng giữa thường diễn tả hoạt động sống của cung đình, tầng đề là tầng âm chỉ gia cố nền móng cho vững chắc không có trang trí.
Mỗi một ngôi tháp chỉ có một lối vào chính cũng là vị trí đặt các nhân thần (Vua được thần thành hóa), đồng thời là thực hành các nghi lễ chính thức vào những ngày lễ trong đại của Bàlamôn giáo. Các mặt còn lại đều là cửa giả và đóng kín.
Hình thể của một tháp Chămpa bao giờ cũng thu nhỏ dần khi càng lên cao. Trên chóp đỉnh thường đặt một Linga. Người Champa đã tiếp thu kĩ thuật xây dựng tháp từ Ấn Độ, nhưng qua bàn tay kĩ sư Chămpa các khối tháp trở nên hài hòa, cứng rắn, mạnh mẽ, dễ gần gũi nhưng đầy bí hiểm. Quan sát tháp ở bất cứ vị trí đâu và vào lúc  nào cũng thấy nét uy nghiêm tráng lệ.
                Về nghệ thuật điêu khắc: các tượng Visnu, Siva điêu khắc Ấn Độ đã ảnh hưởng đến điêu khắc Cha8mpa ở nhiếu góc độ khác nhau. Điều đó thấy rõ qua phong cách tượng Phật Thích Ca, Quan âm… và các tượng Hinđu giáo (thần Siva, Visnu, Brama…) pho tượng Phật Thích Ca ở Đông Dương  là một kiểu Phật Ấn Độ phong cách Amaravati đang được trưng bài ở bảo tàng Madras. Tượng phật Quan âm ở Mỹ Đức lại mang phong cách Gupta. Song có những đặt điểm nhân chủng Malay – polimesien. Địa bàn Champa là nơi tìm thấy dấu ấn của giáo phía Siva nhiều hơn cả
                Ngoài ra, nghệ thuật âm nhạc, nhảy múa của Chămpa cũng khá phát triển mang đậm dấu ấn của nghệ thuật Ấn Độ. Hiện nay còn để lại nhiều nhạc cụ như đàn tì bà 5 dây, sáo, trống các loại. những bức phù điêu trên đá mô tả những vũ nữ đang nhảy múa rất đẹp [CNVM,66]
                Tóm lại, qua nhiều thế kỉ tồn tại và phát triển nghệ thuật Chămpa đã xây dựng cho mình một nền nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đặc sắc, mang nhiều dấu ấn của nghệ thuật Ấn Độ cũng giống như nhiều nước Đông Nam Á đương thời 
             2.2 Yêu tố bản địa trong quan hệ văn hóa Chămpa - Ấn Độ
                Theo các nhà nghiên cứu, ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ tới Đông – Nam Á chủ yếu là sự bành trướng của một nền văn hóa có tổ chức, dựa trên quan điểm Ấn về vương quyền người Ấn không hề tiến hành ở Đông – Nam Á một cuộc xâm lăng vũ trang nào và không hề thôn tính tên tuổi một quốc gia hoặc mộ đô thị nào. Các vương quốc “Ấn Độ hóa” chỉ có những quan hệ về mặt truyền thống với các triều vua Ấn Độ, mà không lệ thuộc về chính trị. Điều này khác hẳn sự bành trướng bằng bạo lực, bằng chinh phục của người Trung Hoa. Vì thế, những nước mà Ấn Độ “chinh phục” được một cách hòa bình và bằng những ảnh hưởng văn hóa vẫn duy trì được những bản chất của mình và phát huy nó lên
                Do thâm nhập chủ yếu qua văn hóa mà lại bằng những phương thức hòa bình, nên những ảnh hưởng của Ấn Độ đã để lại những dấu ấn thật sâu sắc đối với vương quốc Chămpa cũng như đối với các quốc gia cổ đại khác ở Đông – Nam Á.  Thế nhưng, những ảnh hưởng của Ấn Độ chưa bao giờ xóa bỏ những truyền thống văn hóa tốt đẹp vốn có của những cư dân bản địa. Trái lại chính những truyền thống bản địa đã tạo điều kiện cho những ảnh hưởng Ấn Độ phát triển phù hợp trên mảnh đất mà chúng bén rễ.
                Những bằng chứng về khảo cổ học cũng như dân tộc học cho ta biết, khi người Ấn tới, nhiều tộc người ở Đông – Nam Á, trong đó có những cư dân Chămpa ,đã sống trong một xã hội tiền nhà nước, nghĩa là trong xã hội đã có một tầng lớp tù trưởng lớn hay những thủ lĩnh lớn. những người Ấn chắc hẳn đã tìm cách bén rẽ vào tầng lớp xã hội “bên trên” này của Champa ở giai đoạn đầu khi họ tới đây.
                Cũng như ở những quốc gia khác trong khu vực Đông - Nam Á, vì tiếp nhận những yếu tố văn hóa Ấn Độ để phục vụ cho vương triều, nên vua chúa và tầng lớp trên của Chămpa đã làm cho những ảnh hưỡng Ấn Độ nhanh chống bén rễ vào trùm lên khắp các lĩnh vực văn hóa cung đình.
                Cũng vì nhằm mực đích phục vụ vương triều nên các vua chúa Chămpa đã phải nhanh chống biến cải những ảnh hưởng của Ấn Độ cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước và dân chúng của những quốc gia mình. Dù có nhiều nét chung đến mấy đi nữa thì đối với Chămpa, văn hóa Ấn Độ vẫn cứ là từ bên ngoài vào và có nhiều điều xa lạ đối với văn hóa truyền thống của Chămpa. Vì vậy, nếu không có sự thay đổi thì những yếu tố Ấn Độ khó có thể nhập được vào mảnh đất Chămpa. Người đầu tiên phải làm công việc này không phải là ai khác mà chính là vua chúa và tầng lớp trên của triều đình Chămpa. Nhờ vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn, những cái vỏ , những hình thức biểu hiện của Ấn Độ đã nhanh chóng được khuôn vào những nôi dung truyền thống bản địa và gớp phần đẩy những nội dung đó lên một cấp độ cao hơn
               Với tâm bia kí Đông Yên Châu (Quảng Nam – Đà Nẵng) thế kỉ IV – V, Chămpa là quốc gia đầu tiên ở Đông – Nam Á đã dựa trên văn tự Ấn Độ để sáng tạo ra chữ viết của mình. Từ đó trở lên đi, ở Chămpa bên cạnh chữ Phạn, đã tồn tại và phổ biến chữ viết của người Chăm. Sau nhiều lần cải tiến từ dạng chữ nét cong sang chữ nét vuông đến chữ nét cuốn, văn tự Chăm ngày một hoàn hảo để trở thành dạng chữ viết phổ biến của người Chăm hiện nay
               Cũng ngay từ thế kỉ IV–V, bia Đông Yên Châu cho chúng ta biết, bên cạnh các vị thần Ấn Độ các vua chúa Chămpa còn duy trì tín ngưỡng bản địa – thờ thần rắn. Bên cạnh thờ thần rắn các vị thần bản địa cũng dần dần đẩy lên ngang tầm với các vị thần tối thượng Ấn Độ và nhâp váo cái vỏ của thần thoại Ấn Độ. Hiện tượng thờ thần vua ở Chămpa chỉ là một hình thức cao hơn của tính ngưỡng thờ cúng tổ tiên truyền thống của người Chăm . khi những tôn giáo của Ấn Độ ngự trị trong triều đình Chămpa, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không những không mất đi mà còn được đẩy lên cao tới tầm tôn giáo.
               Các vua chúa Champa đã tiếp thu khái niệm “vua là hiện thân của thần linh trên mặt đất” của Ấn Độ. Nhưng việc thần hóa vua ở Chămpa đã nhập luôn vào tục thờ cúng tổ tiên truyền thống. Vì vậy nếu như ở Ấn Độ vua chỉ được thần hóa trong quan niệm, thì ở Chămpa, vua còn được nhập thân vào vị thần tối thượng và được thờ phụng như thờ vị thần tối thượng.
               Do việc thờ hòa nhập vào với tục thờ vua và tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên nên chức năng của các thánh đường Chămpa phải chuyển thành chức năng của đền lăng. Mà một khi chức năng của nội dung thay đổi thì các hình thức thể hiện nội dung đó cũng phải biến đổi theo. Chính vì thế, tuy vân trung thành phỏng theo mô hình và các đề tài Ấn Độ,tháp thờ, các hình tượng thờ phụng hay nói một cách khác là nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ của Chămpa vẫn có sắc thái riêng, vẻ đẹp riêng chư không giống hệt những nguyên mẫu của Ấn Độ.
               Vì trước khi ảnh hưởng của Ấn Độ tới, ở Chămpa chưa có truyền thống xây dựng đền tháp mang tính biểu tượng sâu sắc và bằng vật liệu bền và chưa quen với việc thể hiện các hình tượng lên trên mặt đá một cách gợi cảm như của Ấn Độ, nên người dân Chămpa đã tiếp nhận triệt để nghệ thuật kiến trúc và điêu khác của người Ấn. Thế những, nếu ở Ấn Độ kiến trúc là cái nền cho những hình chạm khắc dày đặc thể hiện những câu chuyện thần thoại, thì ở Chămpa, các hình chạm khắc chủ yếu lại được thể hiện trên các đài thờ đặt trong lòng tháp – nơi thờ tự, chứ mặt ngoài của kiến trúc chỉ được trang trí vứ phải bằng các loại họa tiết hoa lá, hính học… Vì vậy, vẻ đẹp của tháp Chămpa là vẻ đẹp của kiến trúc, ấn tương của tháp Chămpa là ấn tương trang nghiêm, thành kính - ấn tương của một đền lăng. Vì chủ yêu mang chức năng thờ phụng dưới dạng đền lăng nên đền tháp Chămpa hầu như không có sự thay đôi về mặt hình dạng và cấu trúc trong suốt cả nghìn năm tồn tại. Một điều đáng lưu ý nữa ở các tháp Chămpa là sự trung thành từ đầu tới cuối với chất liệu gạch. Chính hai đặt trưng vừa nói tên: không thay đổi cấu trúc là hình dáng và sự trung thành với chất liệu đã khiến các nghệ sĩ Chămpa có thời gian để hoàn thiện kiểu kiến trúc cũng như kỉ thuật xây dựng. Vì thế mà cho đến nay các tháp Chămpa vẫn là những mẫu hình tháp gạch chuẩn mực hiếm có cả về kiến trúc lẫn kĩ thuật ở Đông – Nam Á. Ở các tháp cổ Chămpa, vẻ đẹp của kiến trúc luôn được đề cao chứ không bị các hình chạp khắc nuốt chửng hoạc mang tính chất đơn điệu khô cứng. vẫn theo một nguyên mẫu bất biến, nhưng chỉ cần một vài thay đổi nhỏ ở tỷ lệ, ở cửa vòm , ở cột ốp gạch hoặc ở kiểu dáng của các trana trí thôi là cả một  phong cách mới xuất hiện. Đó chính là vẻ đẹp độc đáo và giá trị nghệ thuật hiếm có của các tháp Chămpa
               Ngay từ những thế kỷ đấu công nguyên, nghệ thuật điêu khắc tôn giáo của Ấn Độ đã du nhập vào Chămpa và được người Chămpa tiếp nhận. Cũng như Ấn Độ nghệ thuật điêu khắc Chămpa chủ yếu nghệ thuật tôn giáo phuc vụ cho việc thờ thần linh. Thế nhưng ở Chămpa tôn giáo và vương quyền gần như hòa quyện vào nhau: tôn thờ thần linh đồng nghĩa với thờ vua. Vì vậy, nghệ thuật điêu khắc chămpa có thêm một chức năng mới: phụng sự vương quyền và vì vậy rất được vua chúa và tầng lớp trên coi trọng. Các vua chúa Chămpa thường xuyên dâng cúng tượng thờ cho các đền tháp và luôn quan tâm tới việc bảo vệ, gìn giữ các hình tượng thờ cúng. Vì mang thêm chức năng phục vụ vương quyền, nên mặc dù vẫn tuân theo những cách thức của Ấn Độ. Điêu khắc Chămpa đã nhanh chóng chuyển sang một hướng mới: tập trung thể hiện các biểu tượng và các hình ảnh các thần, vì thần chính là vua là các tổ tiên của hoàng gia. Cho nên khắc với Ấn Độ điêu khắc Chămpa ít mang tính minh họa hay diễn kể các thần thoại và huyền tích mà tâp trung vào thể hiện các biểu tượng, các hình tượng thờ phụng. Cũng như kiến trúc, nếu so với Ấn Độ và Inđônêxia cùng thời, điêu khắc Chămpa nghèo hơn về đề tài cũng như thể loại. Nhưng, cũng chính vì thế mà ở một vài khía cạnh nào đó, điêu khắc Chămpa có một số sắc thái riêng, một đặt thù riêng không phải không có giá trị. Cái mạnh đó, vẻ đẹp đó của điêu khắc cổ Chămpa là phù điêu nổi.
                Mỗi hình tượng của điêu khắc chămpa vừa hiên ra như một tương thờ dưới dạng tượng tròn lại vừa như là cả một khung cảnh đấy biểu tượng để minh hoa cho hình tượng. Chính vì vậy mà ta thấy phổ biến nhất trong điêu khắc Champa là những phù điêu nổi cao dượi dạng lá nhĩ, dưới dạng bia, dưới dạng đài thờ và tượng dưới dạng phù điêu nổi. hầu như đa số những kiệt tác của điêu khắc Chămpa là những phù điêu nổi cao, như dài thờ Mỹ Sơn E1, vũ nữ Trà Kiệu, đài thờ Đồng dương, lá nhĩ Pô Klaung ở Giarai…
                Cũng như kiến trúc, nếu như trước thế kỉ VII, điêu khắc Chămpa còn rất gần với các phong cách nghệ thuật của Ấn Độ, thì bắt đầu từ thế kỉ VII, các nhà điêu khắc Chămpa đã tạo mình phong cách riêng – phong cách Mỹ Sơn E1. Rồi từ đó trở đi, nghệ thuật điêu khắc Chămpa, tuy vẫn thể hiện các hình tượng đề tài Ấn Độ, đã theo thời gian liên tục lảm nở ra các phong cách với những vẻ đẹp  riêng: mạnh mẽ, khỏe khoắn của phong cách Đông dương; trana nhã của phong cách Trà Kiệu; thô phác và cầu kì của phong cách Tháp Mắm…
                Qua những tài liệu thư tịch và bia ký, chúng ta biết nhiếu phong tục và những quy tắc xã hội của Ấn Độ cũng đã được người dân Chămpa tiêp thu. Để củng cố vương quyền các vua chúa Chămpa đã tiếp nhận chế độ đẳng cấp của Ấn Độ. Thế nhưng nếu áp dụng cứng nhắc hệ thống đẳng cấp như của Ấn Độ thì chắc hẳn sẽ bị bất lợi vì hoàn cảnh xã hội của Chămpa rât khác so với của Ấn Độ. Cho nên, ở Champa, chế độ đằng cấp gấn như chỉ là cái hình thức lỏng lẻo. Bia ký cho chúng ta biết không ít trường hợp kết hôn giữa người của đằng cấp Bàlamôn  với đẳng cấp Ksatris. Cũng các bia ký cho ta biết nhiếu tài liệu nói về vai trò quan trọng của phục nữ trong cung đình cũng như trong xã hội Chămpa.
               Một trong những phong tục mà người dân Chămpa, chủ yếu là vua chúa, học theo Ấn Độ là tục người sống phải lên giàn hỏa thiêu chết theo người chết. Nhưng những trường hợp như vậy, theo các sử liệu và bia ký, rất hiếm có ở Chămpa 
PHẦN KẾT LUẬN
  Ấn Độ từ xa xưa là một trong những trung tâm văn minh lớn của thế giới. Văn hóa Ấn Độ phát triển cao và ảnh hưởng rất sớm ra bên ngoài, trên con đường ảnh hưởng thì khu vực Đông Nam Á dường như là mảnh đất thích hợp nhất để nền văn hóa này gieo mầm và nảy nở trên cơ sở kết hợp với nền văn hóa bản địa. Trong tiến trình đó thì Vương Quốc Champa được xem là một trong những Vương Quốc tiếp thu và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất từ văn hóa Ấn Độ trên tất cả các lỉnh vực.
  Về mặt tôn giáo, văn hóa Ấn Độ đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong văn hóa Champa từ niềm tin, tư tưởng, tư duy, kỉ thuật, đến trang phục đời thường, từ kỉ thuật đúc tượng, tạc tượng đến vị trí nơi đặt tượng thờ,… Tuy nhiên, bên cạnh niềm tin vào các vị thần Ấn Độ, người champa còn giữ được những giá trị truyền thống riêng của mình, đó là tục thờ các vị thần khác có nguồn góc siêu nhiên, hay những công thần khai quốc. Việc nhân thần hóa được thờ phượng cùng các thần linh Ấn Độ là điều hiếm thấy chỉ có ở Champa.
  Về chữ viết, do sớm tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ, nên Champa đã tiếp nhận được hệ thống văn tự Ấn Độ ngay từ những ngày đầu lập quốc. Điều đáng chú ý của chữ viết Champa là trên cơ sở chữ Phạn và lấy nét công của chữ Phạn Ấn Độ, qua nhiều lần cải biến người dân Champa đã xây dựng được cho mình một hệ thống văn tự hoàn chỉnh và được sử dụng phổ biến và rộng rải trong quần chúng. Và hiện nay trên thế giới chỉ còn người Chăm là sử dụng chữ Akhar Thrah do họ sáng tạo ra.
  Về văn học, trước khi tiếp xúc với văn học Ấn Độ, thì văn học dân gian ở Champa khá phát triển, như thần thoại, cổ tích,… Tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ, và về sau là văn hóa Malaysia, đã làm cho nền văn hóa Champa phát triển mạnh mẽ. Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ để lại rõ nét nhất trong hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana, tuy nhiên những sáng tác văn học champa về sau vẫn giữ được nét đặt sắc riêng của cư dân bản địa.
  Về nghệ thuật, ảnh hưởng của kiến trúc Ấn Độ thể hiện rõ nhất trong kĩ thuật xây dựng đền tháp, như việc lựa chọn các vật liệu có tính nâng bền bỉ, các mo6tip, các hình thể tháp. Nét đặt sắc của đền tháp champa là mang đậm phong cách Ấn Độ. Tuy nhiên, vẫn có những nét riêng độc đáo chỉ thấy ở champa, đó là các hình chạm khắc chỉ được thể hiện trên các đài thờ trong lòng tháp – nơi thờ tự, chứ mặt ngoài của kiến trúc chỉ được trang trí vừa phải bằng các họa tiết hoa lá hình học,… Vì vậy, vẽ đẹp cua tháp Chăm là vẽ đẹp của, là ấn tượng của trang nghiêm thành kính – ấn tượng của một đền lăng.
  Còn điêu khắc của các đền tháp Champa, ngoài hình tượng ngọn lửa ở các góc tháp (như hình tượng rồng chầu ở các ngôi đình Việt Nam), có nhiều hình tượng trang trí rất sinh động, phổ biến hơn cả là những nét chạm khắc trực tiếp lên thân tháp, quan cảnh sinh hoạt, múa hát trong cung đình, các vũ nữ Apsara, các nhân vật trong sử thi Mahabaharata, hay các thần hộ pháp,…
  Tóm lại, trong nhiều thế kỉ tồn tại và phát triển độc lập, người Champa đã xây dựng cho mình một nền văn hóa đặc sắc, phát triển huy hoàng, mang đậm dấu ấn của văn hóa Ấn Độ. Một điều không thể phủ nhận được là, những ành hưởng của văn hóa Ấn Độ, đã góp phần cực kì quan trọng vào quá trình hình thành và phát triển của Vương Quốc Champa. Cũng như một nền văn hóa phát triển rực rỡ và đầy bản sắc – văn hóa champa. Ngược lại, chính văn hóa Champa cũng đã góp phần làm nên sức sống củng như giá trị cho văn hóa Ấn Độ và nền van minh Ấn Độ ở Champa, cũng như ở các nước Đông Nam Á thời bấy giờ. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Will Durant ( Nguyễn Hiến Lê dịch, 1971), Lịch sử văn minh Ấn      Độ, Nxb Văn hóa.
[2]. Vũ Dương Ninh (2009), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo Dục.
[3]. Lương Ninh (Chủ biên, 2008), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Giáo Dục.
 [4]. Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb Giáo dục.
[5]. Vũ Dương Ninh (2008), Một số chuyên đề lịch sử thế giới, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
 [6]. . Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại Học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh.
[7]. Lương Ninh (chủ biên) (2003), Lịch sử văn hóa thế giới cổ đại, Nxb Giáo dục.
[8]. Viện nghiên cứu Đông Nam Á (1995) , Việt Nam- Đông- Nam Á: Quan hệ lịch sử văn hóa, Nxb Chính trị QGHN.
[9]. G.Coedès (2008) , Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, Nxb  thế giới
[10]. Lương Ninh (2004), Lịch sử vương quốc Champa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.