Chào mừng đến với Blogger !!!

4 tháng 4, 2012

LÊ SƠ- ĐỈNH CAO CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN


ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT

I.                   Mở đầu..................................................................................................................... 2
II.               Nội dung.................................................................................................................. 3
1.            Qúa trình thành lập nhà Lê sơ......................................................................... 3
2.            Tình hình chính trị 3
2.1.                 Bộ máy chính quyền
2.2.                 Quân đội
2.3.                 Luật pháp
2.4.                 Cũng cố chính quyền dân tộc
3.            Tình hình xã hội................................................................................................ 12
3.1.        Nông nghiệp
3.2.       Thủ công nghiệp
3.3.       Thương nghiệp
3.4.       Kết cấu xã hội
4.            Tình hình tư tưởng, văn hóa ........................................................................... 16
4.1.      Tư tưởng, tôn giáo
4.2.      Giáo dục, khoa cử
4.3.      Văn học và sử học
4.4.      Nghệ thuật
4.5.      Kiến trúc, điêu khắc
4.6.      Khoa học kỉ thuật
5.            Nhận định ........................................................................................................... 20
III.            Tổng kết ................................................................................................................ 20
IV.      Nhận xét của giảng viên

I. Mở đầu
Từ buổi đầu dựng nước đứng đầu là 18 đời vua Hùng cho đến khi dân tộc ta bị chính quyền phương Bắc tiếp nối nhau đô hộ (179), nhân dân ta phải chịu cảnh lầm than, vô cùng tủi cực. Tuy đã có không biết bao anh hùng dân tộc đã đứng lên lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại sự thống trị của bè lũ cướp nước như: Khởi nghĩa hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh, Khởi nghĩa Lí Bí, mà đỉnh cao là cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo đã đập tan mọi âm mưu và ý chí xâm lược của chính quyền phương Bắc.
Với thắng lợi đó đã đưa dân tộc Việt Nam bước vào thời đại phong kiến, thời kì một quốc gia tự chủ cũng đã bắt đầu hình thành. Các triều đại phong kiến Việt Nam chúng ta có thể nhìn thấy rõ nhất, bắt đầu từ thời nhà Ngô- Đinh- Tiền Lê, rồi Lý- Trần- Hồ- Lê sơ, mà đỉnh cao là nhà Hậu Lê. Vì sao nhà Hậu Lê lại đựơc xem là đỉnh cao của chế đô phong kiến? Nó đạt đến trình độ như thế nào so với các triều đại trước và sau nó? Và cũng là những lí do mà tôi chọn đề tài “Lê sơ, đỉnh cao của chế độ phong kiến” để nghiên cứu.
Do tính chất và quy mô của đề tài còn nhiều hạn chế. Mong rằng qua đề tài này sẽ là cơ sở tạo nguồn tư liệu cho các đề tài nghiên cứu sau này với quy mô rộng hơn.

II. Nội dung
1. Qúa trình thành lập nhà Lê Sơ
Nhà Lê Sơ được thành lập từ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài 10 năm chống lại sự đô hộ của nhà Minh do Lê Lợi lãnh đạo.
Khi sang đánh nhà Hồ chiếm nước Đại Ngu (1406), nhà Minh đã nhân danh Phù Trần diệt Hồ, nhưng sau đó lại đánh diệt nhà Hậu Trần (1413). Vào cuối cuộc chiến với Lê Lợi, khi bị quân Lam Sơn vây trong thành Đông Quan (Hà Nội), tướng nhà Minh là Vương Thông đề nghị lập lại con cháu họ Trần làm điều kiện giảng hòa. Lê Lợi đã lập Trần Cảo lập làm vua trên danh nghĩa vào cuối năm 1426.
Năm 1427, quân Minh sau 2 trận thua quyết định ở Chi Lăng và Xương Giang phải rút về nước. Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Vua Minh Tuyên Tông vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương.
Ít lâu sau Trần Cảo chết. Lê Lợi tự mình lên ngôi vua, rồi sai sứ sang tâu nhà Minh rằng Trần Cảo bệnh mà chết ngày 10 tháng giêng năm 1428 âm lịch, do đó Lê Lợi có danh chính để làm vua Đại Việt. Minh Tuyên Tông thừa nhận Lê Lợi làm An Nam quốc vương.
Nhà Hậu Lê chính thức thành lập năm 1428, được sử gọi là Lê Sơ.
Nói đến thời Lê sơ, người ta thường nhắc đến tính chất hoàn bị của bộ máy thời kỳ này. Triều Hậu Lê kéo dài 361 năm (1428 - 1789), được chia làm 2 thời kì : Lê sơ được tính từ khi Lê Lợi lên ngôi (1428) đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi (1527), gồm 11 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập, Lê Thánh Tông là người đưa vương triều Lê đến giai đoạn thịnh trị nhất. 
     2. Tình hình chinh trị 
               2.1. Bộ máy chính quyền
    Một công việc thiết yếu mà các vua thời Lê sơ đều quan tâm và cố gắng thực hiện là kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung, mang tính quan liêu chuyên chế. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), nó đạt tới đỉnh cao, trở thành một nhà nước toàn trị, cực quyền. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình, từ nền quân chủ quý tộc thời Lý - Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Á.
    Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của nhà vua đã được đẩy lên rất cao với chủ nghĩa tôn quân. Theo đó, nhà vua là con Trời. Người giữ mệnh Trời, thay Trời trị dân; các ấn tín của vua đều khắc chữ Thuận thiên thừa vận, Đại thiên hành hóa. Điện Kính Thiên được xây trong Hoàng thành Thăng Long. Hoàng đế là người chủ tế duy nhất trong các buổi tế lễ (tế Trời, tế Tôn miếu, tế Khổng Tử), là Tổng chỉ huy quân đội (Lê Thánh Tông đích thân cầm quân đi đánh Champa). Thời Lê Thánh Tông, chức Tướng quốc (Tể tướng) đầu triều và một số chức danh đại thần khác đã bị bãi bỏ. Hoàng đế trực tiếp điều khiển triều đình. Quyền lực của các quý tộc tôn thất cũng bị hạn chế, không được lập quân vương hầu, Lê Thánh Tông bỏ lệ ban Quốc tính. Thời Lê sơ, một số công thần có uy tín và quyền lực cao đã bị nghi kỵ và lần lượt bị giết hại, như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lê Khả, Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Nguyễn Trãi.
    Bộ máy quan liêu hành chính và chuyên môn cũng được kiện toàn từng bước. Năm 1471 , Lê Thánh Tông đã tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn nhằm tăng cường sự kiểm soát chỉ đạo của Hoàng đế đối với các triều thần, tăng cường sự ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau trong giới quan liêu, tăng cường tính hiệu lực của bộ máy quan lại.
   Trong triều đình, dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua là 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có 2 Thí lang. Bên cạnh đó, còn có Lục khoa với chức năng theo dõi, giám sát và Lục tự với chức năng điều hành. Những cơ quan chuyên môn trong triều gồm có các đài, các viện, giám, sảnh như Ngự sử đài, Hàn lâm viện. Quốc tử giám, Nội thị sảnh ... 
     Về mặt hành chính, Lê Thái Tổ chia nước thành 5 đạo. Lê Thánh Tông đã cải tổ lại, chia thành 13 đạo (sau đổi là 13 thừa tuyên), đó là: Lạng Sơn, An Bang, Thái Nguyên, Hư­ng Hoá, Tuyên Quang, Bắc Giang, Nam Sách, Quốc Oai, Thiên Trường, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hóa và Quảng Nam. Kinh thành Thăng Long thuộc một đơn vị hành chính đặc biệt, gọi là phủ Trung Đô, sau đổi thành phủ Phụng Thiên, bao gồm 2 huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, từ năm 1430 gọi là Đông Kinh (để phân biệt với Tây Kinh, tức Lam Kinh, Lam Sơn - Thanh Hoá). Dưới đạo thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, cùng các đơn vị cơ sở như hương, xã, thôn, trang, sách, động, nguồn, trường. Riêng kinh thành Thăng Long được chia thành 36 phường.
    Đứng đầu các đạo thừa tuyên là các tuyên phủ sứ. Ở mỗi thừa tuyên có 3 ty : Đô ty (phụ trách quân đội) Thừa ty (phụ trách dân sự hành chính) và Hiến ty (phụ trách thành tra giám sát). Các xã được chia thành 3 loại : xã lớn (500 hộ) , xã vừa (trên 300 hộ) và xã nhỏ (trên hộ). Chức xã quan do dân bầu, Nhà nước chỉ đạo và xét duyệt.
Tổng số quan lại (từ cấp huyện trở lên) thời Lê Thánh Tông là 5370 người, gồm 2755 quan trong triều và 2615 quan ở các địa phương, đại bộ phận xuất thân từ khoa cử.
Trải qua bốn đời vua đầu: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và Lê Nghi Dân xã hội Đại Việt đã có nhiều chuyển biến rất tích cực, nhưng phải bắt đầu từ cuộc cải tổ của Lê Thánh Tông, nhà nước phong kiến mới có được tính chất của một mô hình phong kiến thực sự hoàn bị.
Về cơ bản, công cuộc cải tổ của Lê Thánh Tông là nhằm tập trung tuyệt đối quyền lực vào người đứng đầu nhà nước là nhà vua, tăng cường sức mạnh của bộ máy quan liêu. Lê Thánh Tông đã bãi bỏ một số chức quan, cơ quan và các cấp chính quyn trung gian, thành lập các cơ quan giám sát kiểm soát lẫn nhau để ngăn ngừa sự lạm quyền.
Sự hoàn bị và được đánh giá cao trong tổ chức chính quyền thời kỳ này là bên cạnh việc phân công chức năng, nhiệm vụ tương đối rõ ràng giữa các cơ quan còn có cả những thiết chế giám sát, phản biện như Lục khoa và đặc biệt là cơ quan Ngự sử đài. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao tính chất hoàn bị của mô hình này không chỉ ở chỗ bộ máy thời kỳ này có nhiều chức quan hơn, được chuyên môn hoá hơn so với thời kỳ trước mà chính ở thiết chế giám sát quyền lực.
    2.2. Quân đội 
   Quân đội nhà Lê Sơ là tổng thể tổ chức quân sự của nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Thái Tổ đến hết triều vua Lê Cung Hoàng, từ năm 1428 đến năm 1527. Thời kỳ đầu và từ thời Lê Thánh Tông trở đi có những thay đổi lớn trong tổ chức và chế độ huấn luyện. 
 Quân đội thời Lê sơ là một quân đội mạnh, được huấn luyện kỹ, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Quân đội được chia thành cấm binh và ngoại binh. Lê Thái Tổ chia quân thành 5 phiên, Lê Thánh Tông đổi thành 5 phủ. Cũng như thời Lý - Trần, nhà Lê áp dụng chính sách ngụ binh ư nông, cho quân lính thay phiên nhau làm nhiệm vụ thường trực bảo vệ cung điện, công sở, còn phần lớn làm nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp khi có chiến sự thì tất cả sẽ được trịu tập lại cùng nhau tác chiến. Năm 1428, sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi Lê Lợi có 35 vạn quân, sau khi cho giải ngũ 35 vạn, còn lại10 vạn quân chia thành 5 phần luân phiên nhau, 4 phần về sản xuất nông nghiệp, một phần thường trực làm nhiệm vụ quốc phòng, giữ gìn an ninh.
    Theo chế độ tuyển quân, cứ 3 đinh lấy một lính thường trực và một lính trù bị. Có các loại quân thủy, bộ, tượng, kỵ. Vũ khí ngoài giáo mác, cung tên, có hỏa pháo và hỏa đồng. Chế độ tập luyện quy củ. Hàng năm, quân sĩ từ Thanh Hóa trở ra tập duyệt ở Kinh đô, từ Thanh Hóa trở vào tập duyệt tại địa phương. Ở phía tây thành Thăng Long, có khu Giảng Võ điện, Giảng Võ đường chuyên huấn luyện tướng sĩ. 
Năm 1466, Lê Thánh Tông cải tổ hệ thống tổ chức quân đội. Năm 1467, Lê Thánh Tông ban hành Luật cấm vệ và quân chính, trong đó nêu ra những điều luật hết sức kỉ luật. Quân đội toàn quốc chia làm 2 loại: thân binh thay cấm binh bảo vệ kinh thành, còn ngoại binh trấn giữ các xứ. Thân binh gồm 2 vệ Kim ngô và Cẩm y, 4 vệ Hiệu lực, 4 vệ Thần vũ, 6 vệ Điện tiền, 4 vệ Thuần tượng, 4 vệ Mã bế. Vua Lê đặt quân Ngũ phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ có 5- 6 sở. Vũ khí ngoài giáo mác, cung tên còn có hỏa khí và hỏa đồng. Chế độ tập luyện theo quy củ.
Lực lượng quân đội không chỉ hoàn thành sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc mà còn tạo điều kiện thuận lợi thực hiện đường lối đối ngoại vừa mềm dẻo vừa cứng rắn nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và giao hảo với các nước láng giềng.
Chế độ duyệt tuyển của nhà Lê ngày càng hoàn thiện và chính quy hơn trước. Quân đội được chia khẩu phần ruộng đất công của làng xã, do đó yên tâm hơn trong thời gian dài trong quân ngũ. Ngoài ra, nhà Lê vẫn áp dụng chế độ “ngụ binh ư nông” như các triều trước nhằm đảm bảo sản xuất nông nghiệp, của cải vật chất cho xã hội. Chế độ này làm giảm người thoát ly sản xuất, khiến triều đình giảm bớt chi phí quân sự, bảo đảm cân đối giữa kinh tế và quốc phòng.
Những cải cách quy định quân sự dẫn đến những thay đổi to lớn trong tổ chức binh chế thời Lê. Cùng xu hướng trung ương tập quyền cao, triều đình nắm độc quyền tổ chức lực lượng vũ trang và người đứng đầu là vua. Các quan lại quý tộc thời Lê hoàn toàn không có quyền tổ chức quân đội riêng như dưới thời nhà Trần.
Nhà Lê xây dựng được lực lượng quân đội hùng mạnh. Phan Huy Chú lý giải rằng, với chế độ tuyển quân chặt chẽ đảm bảo cho nhà Lê huy động được nhiều quân, do đó mới có số quân bộ đi đánh Chiêm Thành, Bồn Man là 26-30 vạn.
Quân đội hùng hậu nhà Lê đã góp phần củng cố chính quyền trung ương vững mạnh và đưa nước Đại Việt từ thời Lê Thánh Tông trở thành quốc gia hùng cường ở bán đảo Trung - Ấn, mở rộng đất đai phía tây và phía nam, khiến nhiều quốc gia ở Đông Nam Á như Chiêm Thành, Chân Lạp, Lan Xang, Chiang Mai, AyutthayaJava phải thần phục.
   
2.3. Luật pháp 
    Trong việc trị nước, bên cạnh lễ giáo, các vua thời Lê sơ rất chú trọng đến việc chế định pháp luật. Lê Thánh Tông nói: Pháp luật là phép công của nhà nước, vua cùng quan đều phải theo. Đến thời Hồng Đức, Lê Thánh Tông đã cho ban hành bộ luật thành văn hoàn chỉnh, gồm 722 điều, được gọi là Quốc triều hình luật hay Bộ luật Hồng Đức, sẽ được duy trì và bổ sung ở các thế kỷ sau.
    Nội dung cơ bản của Bộ luật là bảo vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật tự đẳng cấp, gia đình phụ hệ gia trưởng và ý thức hệ Nho giáo. Luật quy định 10 trọng tội không thể nhân nhượng được (thập ác) và 8 hạng người có thể miễn giảm tội (bát nghị). 
    Bộ luật mang tính đẳng cấp, có mô phỏng luật Trung Quốc, nhưng nhiều điều khoản đã lưu ý đến những tập quán cổ truyền mang tính đặc hữu dân tộc. Quyền lợi của phụ nữ đã được chú trọng trong việc thừa kế gia tài và xét xử ly hôn, được coi là tiến bộ hơn so với luật Trung Quốc đương thời.
      Về hình thức, “Quốc triều hình luật” là bộ luật hình sự nhưng thực chất là bộ luật tổng hợp, có các điều khoản về điền sản, dân sự, hôn nhân gia đình ... Chính vì vậy ta có thể nhận thấy rằng bộ luật này đã mang đầy đủ nội dung như: Luật hình sự, Hành chính, Tố tụng, Dân sự, Quân đội và cả luật Quốc tế.
“Quốc triều hình luật” là một trong những bộ luật quan trọng nhất của Việt Nam thời kỳ phong kiến. Nói đến Quốc triều hình luật người ta nghĩ ngay đến một bộ luật có kĩ thuật lập pháp cao, nội dung phong phú, toàn diện với nhiều giá trị nổi bật trong lịch sử pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến. Quốc triều hình luật không chỉ được đánh giá cao hơn hẳn so với những thành tựu pháp luật của các triều đại trước đó mà còn có nhiều ý nghĩa quan trọng đối với việc biên soạn nhiều bộ luật khác của các triều đại phong kiến Việt Nam sau này.
r“Quốc triều hình luật” là sự kế thừa và sáng tạo độc đáo các thành tựu luật pháp trước đó để đạt đến đỉnh cao nhất của thành tựu luật pháp phong kiến Việt Nam
Năm 1428, “Quốc triều hình luật” được ban hành thời Lê Thánh Tông và xu hướng hưng thịnh của nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, bộ “Quốc triều hình luật” ngày nay chúng ta còn giữ được cho thấy đây không chỉ là thành quả lớn lao ngành lập pháp đời Lê Thánh Tông mà nó được sinh ra trên cơ sở kế thừa nhiều thành tựu lập pháp của các triều đại trước, của Trung Quốc và của các vua đầu triều Lê. Ngay sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã ban hành nhiều những quy định về hình phạt và luật lệ kiện tụng, về chức tước các quan văn võ, về phân cấp hệ thống chính quyền địa phương, … Thái Tổ tỏ ra đặc biệt quan tâm đến những vấn đề thời hậu chiến như: hạn chế thế lực và quyền hạn của các quan đại thần, tướng hiệu, việc lập sổ điền, sổ hộ, việc cấm bỏ hoang ruộng đất… nhằm nhanh chóng thiết lập lại kỉ cương nhà nước, trật tự xã hội, củng cố địa vị của Vua, kiểm soát chặt chẽ đất đai, thuế khoá Ngoài ra, “Quốc triều hình luật” còn thừa kế trực tiếp thành tựu từ các bộ luật của triều đại trước như Hình thư đời Lý và Hình thư nhà Trần. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu luật pháp từ các đời trước ở trong và ngoài nước như thế, Lê Thánh Tông đã có sự sáng tạo và đóng góp lớn lao để hoàn thiện cơ bản bộ “Quốc triều hình luật”. Những điều khoản vua Lê Thánh Tông bổ thêm chủ yếu nhằm củng cố chặt chẽ hơn nữa quan hệ vua – tôi và lễ nghi Nho giáo trong gia đình. Đồng thời, những điều khoản đó cũng nhằm hướng tới điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến đời sống của nhân dân, trong đó luôn có sự kết hợp hài hoà giữa luật tục, lễ nghi và tư tưởng Nho giáo. Đồng thời, qua đó cho chúng ta thấy tư duy cởi mở của tập đoàn phong kiến Lê Sơ, không bị hạn chế bởi tư tưởng tự tôn cực đoan thường thấy ở các triều đại phong kiến khác mà sẵn sàng tiếp thu và chủ động sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể nước ta thời kỳ đó.
r.   “Quốc triều hình luật” là bộ luật bảo vệ chế độ phong kiến
Pháp luật là một bộ phận thuộc kiến trúc thường tầng của xã hội. Là công cụ trong tay giai cấp phong kiến thống trị, pháp luật là ý chí của giai cấp địa chủ phong kiến. “Quốc triều hình luật” là một bộ luật phong kiến nên nó cũng mang bản chất của pháp luật phong kiến. Điều hiển nhiên nó là một bộ luật bảo vệ chế độ phong kiến. Những điều luật được soạn thảo ra trong “Quốc triều hình luật” thực chất là xuất phát từ ý nguyện của vua Lê Thánh Tông, và cho dù nó gắn bó với thực tiễn cuộc sống nhưng về cơ bản nó mang những tư tưởng, tình cảm và quan niệm của Lê Thánh Tông, mang theo lòng nhân ái của vị vua lỗi lạc đó. Nguyên tắc cơ bản nhất và cũng là mục tiêu quan trọng nhất của “Quốc triều hình luật” là bảo vệ, củng cố chế độ quân chủ phong kiến, lợi ích của nhà nước, nhà vua và hoàng tộc. Những hành vi xâm phạm đến lợi ích, sự an toàn và bình yên của Vua, Hoàng tộc và chính quyền đương thời sẽ bị liệt vào tội “thập ác” với những hình phạt nghiêm khắc nhất (điều 1, 2). Trên cơ sở đề cao hệ tư tưởng Nho giáo, Bộ luật này đã mặc nhiên thừa nhận những quyền và nghĩa vụ vợ chồng do Nho giáo và tục lệ đặt ra nhằm mục đích bảo vệ tuyệt đối chế độ gia tộc phụ quyền: thiên về quyền lợi pháp lý của người chồng, bảo vệ quyền lợi của người chồng với tư cách là gia trưởng. Thực chất đó cũng chính một phương thức để củng cố chế độ phong kiến trung ương tập quyền ngày càng cao hơn của nhà Lê. “Quốc triều hình luật” bảo vệ cơ sở kinh tế của xã hội phong kiến: bảo vệ chế độ tư hữu ruộng đất với quyền lợi của quan lại, quý tộc và địa chủ và bảo vệ chế độ sở hữu tối cao của Nhà nước thông qua việc quản lý ruộng đất và thu tô thuế. Chính vì thế, củng cố hai hình thức sở hữu ruộng đất này chính là củng cố sự phát triển và ổn định của nhà nước phong kiến thời kỳ đó. “Quốc triều hình luật” là một bộ luật phong kiến tương đối điển hình, với tư cách là một “phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội phong kiến”. Một điều rất rõ ràng rằng, “Quốc triều hình luật” ra đời là sự đáp ứng yêu cần phát triển trong giai đoạn xác lập và phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến Việt Nam, với một triều đại đang cần khẳng định vị thế và ưu thế đang lên của mình. “Quốc triều hình luật” là những điều khoản riêng biệt chỉ có trong bộ luật nhà Lê. Những điều khoản đó xuất phát từ tình hình kinh tế, chính trị, xã hội đương thời và những đòi hỏi cấp thiết của tình hình đó. Bên cạnh đó là đề phòng nguy cơ tái xâm lược của nhà Minh, “Quốc triều hình luật” có những quy định nghiêm khắc trừng trị những kẻ thông đồng hoặc tiết lộ công việc triều đình trong nước cho người nước ngoài cấm không được tự tiện qua biên giới, kiểm soat chặt chẽ việc thông thương, … Đồng thời, việc ban hành “Quốc triều hình luật” có ý nghĩa rất lớn trong việc khẳng định vương quyền của triều Hậu Lê trên đất nước ta thời kỳ đó. Một bộ luật hoàn chỉnh và nghiêm khắc có thể khẳng định vai trò cai trị và sức mạnh của vương quyền phong kiến đang nắm giữ Nhà nước, cũng là giúp cho Nhà nước có thể quản lí đất nước một cách thống nhất và chặt chẽ nhất.
r.   Quan hệ giữa pháp luật và phong tục tập quán
Nghiên cứu “Quốc triều hình luật” chúng ta thấy rất rõ vua Lê Thánh Tông đã có ý thức rất rõ cho việc xây dựng thuần phong mỹ tục cho thần dân được đặt dưới quyền trị vì của Ông. Điều đó thường được thể hiện trong một số điều khoản riêng biệt như trong quan hệ gia đình, “Quốc triều hình luật” vẫn thừa nhận một số phong tục, thói quen, nếp sống cổ truyền trong dân gian. Ví dụ: “Quốc triều hình luật” không đưa hành vi chia tách tài sản khỏi gia đình cha mẹ để ra ở riêng là tội bất hiếu. Tôn trọng tục thờ cúng tổ tiên, luật thừa kế cho phép con gái trưởng được hưởng phần thừa kế hương hoả nếu gia đình không có con trai. Coi trọng và khuyến khích tình yêu thương đồng bào, đề phòng, bài trừ tệ nạn cờ bạc trong nhân dân, chống tệ mê tín dị đoan. Bên cạnh đó, “Quốc triều hình luật” đã trừng trị bài trừ những thói xấu của con người: trừng trị những hành vi xâm phạm đến mồ mả, những hành ví có tính chất bất hiếu, bất mục, bất kính … đều bị trừng trị nghiêm khắc, đặc biệt các tội liên quan đến việc gian dâm, tà dâm, loạn luân bị lên án và trừng phạt nặng nề hơn bất cứ tội nào, … Như vậy, “Quốc triều hình luật” có mối quan hệ rất đặc biệt với phong tục tập quán và truyền thống đạo đức của con người Việt Nam. Tinh thần thương dân, vị tha, nhân từ của vua Lê Thánh Tông là yếu tố chi phối mạnh đến đặc trưng này của bộ luật. Tính chất nhân đạo cũng là một trong những đặc tính nổi bật của “Quốc triều hình luật” so với các bộ luật khác.
r“Quốc triều hình luật” là một bộ luật rất sâu sắc và có sức bao quát lớn
 “Quốc triều hình luật” là một bộ “tổng luật”. Nếu xét theo khoa học pháp lý hiện đại, bộ luật này sẽ bao gồm các quy phạm pháp luật ở nhiều ngành luật khác nhau: luật hôn nhân – gia đình, luật dân sự, luật hành chính, luật hình sự, luật tố tụng, … Tìm hiểu bộ luật, chúng ta thấy phạm vi điều chỉnh và sự can thiệp của nó rất rộng, bao quát lên toàn bộ các mặt đời sống xã hội, từ những quan hệ trong gia đình đến những quan hệ trong làng xã, từ quan hệ vua tôi đến quan hệ vợ chồng cha con, mẹ con, từ các lĩnh vực kinh tế đến các lĩnh vực quản lí hành chính, ngoại giao, quân sự trong nước, … Về cơ bản, các điều khoản được quy định trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Trong vấn đề kết hôn, bộ luật còn chỉ ra rõ các trường hợp cấm kết hôn như đang có tang cha, mẹ, chồng, khi ông bà cha mẹ đang bị giam tù, … Hoặc trong vấn đề về quyền thừa kế tài sản, chế độ tài sản gia đình, chế độ tài sản giữa vợ và chồng… luật quy định rất rõ. Như vậy, tính bao quát và tỉ mỉ của “Quốc triều hình luật” thể hiện rất rõ. Nó thể hiện một khả năng làm luật rất đặc sắc và chu toàn của các nhà Lê vào thế kỷ XV.
r“Quốc triều hình luật” đạt một trình độ cao về kĩ thuật luật pháp
Điều tiến bộ lớn nhất của bộ luật này là đã chú ý đến tính hệ thống trong nội dung các điều luật. Các nhà làm luật đã ghép tương đối hợp lí các điều gần nhau về tính chất vào một chương và các chương có liên quan đến nhau được để trong một quyển. Hầu hết tất cả những vấn đề lớn nhỏ trong xã hội đều được nếu ra trong bộ luật. Thậm chí, cả những quy định dành riêng cho binh lính cũng được tập hợp một cách có hệ thống. Một số điều đã đạt tới trình độ tiếp cận với kỹ thuật lập pháp hiện đại: ý chí phạm tội, tình tiết làm nặng hoặc giảm nhẹ tội. Phần chế tài trong các quy phạm pháp luật của “Quốc triều hình luật” được quy định dưới dạng chế tài cố định - đây là điểm khác biệt của bộ luật này so với các quy phạm pháp luật hiện hành ở cả các nước phương Đông, phương Tây. “Quốc triều hình luật” đề ra các mức chế tài nặng hay nhẹ, tăng nng hay giảm nhẹ tội được ấn định rõ ràng cho mi hành vi vi phạm cụ thể. Có thể thấy các nhà làm luật triều Hậu Lê và vua Lê Thánh Tông đã thực sự xây dựng được một trình độ kĩ thuật tiến bộ so với thời đại.
r. “Quốc triều hình luật” mang nhiều tưởng tiến bộ, đi trước thời đại
Ra đời vào giữa thế kỷ XV, nhưng bộ “Quốc triều hình luật”đã đạt được giá trị và thành tựu nổi bật, có những đặc điểm tiến bộ và ưu thế hơn hẳng các bộ luật trước và cả sau nó. Điều tiến bộ nổi bật nhất mà chúng ta thường đề cập đến nhiều nhất chính là sự quan tâm nhiều đến địa vị của người phụ nữ, quan tâm đến quyền lợi của họ, cho họ một sự bình đẳng tương đối đối với đàn ông trong xã hội và người chồng trong gia đình. Đó chính là yếu tố góp phần làm nên sự đặc biệt và tiến bộ đi trước thời đại của bộ luật này. Trong bộ luật đã có nhiều điều liên quan đến địa vị pháp lý của người phụ nữ - một điều ít thấy trong các bộ luật phong kiến. “Quốc triều hình luật” đã quan tâm bảo vệ những quyền cơ bản của con người. Mặc dù bị hạn chế bởi quan niệm giai cấp hẹp hòi, nhưng bộ luật này cũng đã đưa ra nhiều quy định bảo vệ con người, trong đó có cả việc bảo vệ những những ở tầng lớp dưới trong xã hội, như bảo vệ quyền dân chủ tự do của dân đinh, đặc biệt là trong đó không có sự phân biệt về địa vị xã hội và bảo vệ danh dự, nhân phẩm con người. … Trong lĩnh vực pháp luật, “Quốc triều hình luật” cũng quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng quan lại, những điều luật liên quan đến quan tướng các cấp chiếm trên 50% tổng số điều luật về quy định về tội phạm. Tuy ra đời cách đây hơn 500 năm, nhưng “Quốc triều hình luật” đã quy định được gần như tất cả các tội danh cơ bản theo luật hình sự hiện đại. Có thể nói, “Quốc triều hình luật” đã đạt được rất nhiều thành tựu nổi bật, có tính chất tiến bộ vượt thời đại. Qua đó, chúng ta không chỉ thấy được tài năng tuyệt vời của các nhà lập pháp Việt Nam thế kỷ XV, trong đó vị vua anh minh Lê Thánh Tông mà còn thấy được sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của chế độ phong kiến Việt Nam thời kỳ này. Sự phát triển cao của chế độ phong kiến trung ương tập quyền thời Lê Sơ đã được khẳng định ở thêm độ bền vững với sự ra đời của “Quốc triều hình luật” năm 1483. Đây được coi là bộ luật hoàn chỉnh nhất còn giữ lại được đến ngày nay trong lịch sử luật pháp phong kiến nước ta. Nó là một thành tựu đặc sắc trong lịch sử Nhà nước và pháp quyền Việt Nam. Mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng “Quốc triều hình luật” đã thể hiện được sự kết hợp hài hài quyền lợi của giai cấp gắn với lợi ích dân tộc, thể hiện được sự điều hoà giai cấp tài tình trong xã hội Việt Nam thời kỳ Hậu Lê trong thời thịnh trị.
    2.4. Củng cố chính quyền dân tộc
Cũng như lời dạy của Bác, ngày 19-9-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm Đền Hùng, gặp mặt và giao nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô. Người căn dặn: Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.
Với lòng tự hào dân tộc, các vua thời Lê sơ đã không ngừng củng cố, phát triển quốc gia dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông, một câu nói vượt thời đại: Quyết không để một tấc đất, một thước sông của Thái Tổ lọt vào tay kẻ khác. Các vua Lê đã thi hành một chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với nhà Minh trong vấn đề biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam. Năm 1471, Lê Thánh Tông cất quân đánh Cham pa, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định), lấy vùng đất mới lập thành thừa tuyên Quảng Nam. Các nước trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến triều cống.
     Để nắm chắc và khống chế các tù trưởng thiểu số, triều đình nhà Lê đã áp dụng những biện pháp kết hợp trấn áp với phủ dụ (như trường hợp đối với Đèo Cát Hãn, tù trưởng Thái ở Lai Châu). Nhà vua cũng cho điều tra và lập sổ hộ tịch, khảo sát địa hình, lập bản đồ hành chính quốc gia (bản đồ Hồng Đức năm 1469), đề cao, tôn vinh truyền thống dân tộc và các danh nhân lịch sử - văn hoá. Ở thế kỷ XV, Đại Việt đã trở thành một quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á.
     3. Tình hình kinh ­xã hội
      Nhà nước quân chủ tập trung thời Lê sơ là một nhà nước mạnh và ổn định. Trong sự phục hồi và phát triển kinh tế, Nhà nước đó đã đề cao vai trò chỉ đạo và sự can thiệp của mình vào đời sống kinh tế - xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những yếu tố nhà nước và dân gian, công hữu và tư hữu. Thời Lê sơ, nền kinh tế tiểu nông - sản xuất nhỏ làng xã đã được duy trì và khuyến khích, với sự can thiệp và bảo hộ của một Nhà nước thu tô, trọng nông. Nhà nước đó cũng có thái độ dè dặt, không khuyến khích nền kinh tế công thương nghiệp hàng hóa phát triển, nắm độc quyền gian thương với nước ngoài.
               3.1. Nông nghiệp
     Ruộng đất thời Lê sơ bao gồm ruộng đất Nhà nước, ruộng công làng xã và ruộng tư.
     Ruộng Nhà nước thường được gọi là quân điền. Có ruộng quốc khố là những ruộng do Nhà nước trực tiếp quản lý và sản xuất, thu hoạch đưa vào kho công. Lộc điền là loại ruộng của Nhà nước ban cấp cho những quan liêu cao cấp (từ tứ phẩm trở lên), gồm có ruộng ban cấp được phép thừa kế (ruộng thế nghiệp) và ruộng ban cấp tạm thời, có thể thu hồi lại sau khi chết (ruộng ân tứ). Diện tích lộc điền có thể thay đổi từ 40 mẫu (quan tứ phẩm) đến trên 2000 mẫu (các thân vương). Người được cấp chỉ được hưởng hoa lợi, tô thuế, có một số hộ người hầu nhưng không có nông nô và nô tì.
     Lộc điền thời Lê thay thế thái ấp điền trang thời Lý - Trần, nó không tạo điều kiện cho yếu tố cát cứ phát triển. Một số ruộng thế nghiệp của lộc điền có xu hướng trở thành những ruộng tư, người được cấp trở thành quan liêu - địa chủ.
       Đồn điền là loại ruộng do Nhà nước trực tiếp quản lý đứng đầu là các quan chánh, phó đồn điền sứ. Các quân sĩ, tù binh, phạm nhân tội đồ, dân lưu tán được chiêu mộ. Ruộng đất đồn điền phần lớn có nguồn gốc khai hoang hoặc ở các miền biên ải. Năm 1481, Lê Thánh Tông cho lập 43 sở đồn điền. Vùng Bắc Bộ có 30 sở, chung quanh Hà Nội có các sở đồn điền ở Dịch Vọng, Quán La, Thịnh Quang.
     Ruộng làng xã gồm có các loại công điền tư điền. Thời Lê sơ, tuy ruộng tư đã phát triển, nhưng ruộng công vẫn chiếm uu thế, qua việc thực hiện phép quân điền.
     Chính sách quân điền bắt đầu từ thời Lê Thái Tổ. Sau khi kháng chiến thắng lợi, tình hình ruộng đất xáo trộn, nhà vua đã có ý định chia ruộng công cho nhân dân, qua lời phủ dụ : chiên sĩ thì nghèo, du sĩ thì giàu, người chiến sĩ phải chiến đấu thì không có tấc đất để ở, kẻ du thực vô ích cho nước thì lại có ruộng đất  quá nhiều... Do đó, không có nhười tận tâm với nước mà chỉ lo việc phú quý. Phép quân điền được thực hiện hoàn chỉnh dưới thời Lê Thánh Tông.
     Theo đó, ruộng đất công làng xã cứ 6 năm một lần được phân phối lại, dưới sự chỉ đạo của Nhà nước. Quỹ đất theo đơn vị làng xã, có thể điều chỉnh chút ít giữa các xã lân cận. Đối tượng được chia ruộng kể từ các quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít lộc điền) được chia 11 phần tới các loại cô nhi, quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp tô cho Nhà nước (các quan tam, tứ phẩm thì được miễn). Loại công điền quân phân này trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu Nhà nước, do làng xã quản lý và các hộ gia đình sử dụng.
      Chính sách quân điền thời Lê sơ là một bư­ớc trong quá trình phong kiến hóa làng xã, chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tộc sang nền kinh tế tiểu nông. Qua đó, Nhà nước đã nắm được làng xã và dân chúng tăng nguồn thu nhập (qua nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh dịch). mặt khác, phát triển được sản xuất và ổn định được đời sống nhân dân. Đó là một biện pháp tích cực trong chính sách ruộng đất thời Lê sơ, nhưng sau đã dần dần mất tác đụng do nạn chấp chiếm ruộng đất.
     Bên cạnh ruộng công, ruộng tư thời Lê sơ cũng đã phát triển, một số là của địa chủ quan liêu và đại bộ phận là của địa chủ bình dân. Ruộng tư không phải nộp tô cho Nhà nước. Nhà nước thừa nhận nhưng không khuyến khích loại ruộng này. Bộ luật nhà Lê, nhất là chương Điền sản đã nói đến các thủ tục làm văn tự khế ước trong vấn đề bán nhượng, tranh chấp kiện tụng hoặc thừa kế về ruộng đất.
     Sự phát triển của ruộng tư thời Lê sơ phản ánh xu thế phát triển khách quan về ruộng đất trong lịch sử Việt Nam, xác lập quan hệ sản xuất phong kiến phổ biến địa chủ - tá điền trong xã hội. Tuy nhiên, đây là một quá trình tư hữu hóa không tự nhiên, không được Nhà nước khuyến khích, nên đã dẫn đến những tệ nạn như chiếm công vi tư, chấp chiếm ruộng đất... dần dần đi tới tình trạng khủng hoảng ruộng đất.
    Nhà nước Lê sơ là một Nhà nước trọng nông, đã đề ra nhiều biện pháp để khuyến khích và phát triển nông nghiệp.Việc chăm sóc, đào đắp kênh đê rất được chú trọng. đặt ra các chức quan Khuyến nông và Hà đê. Khi khẩn cấp đã huy động cả học sinh Quốc Tử Giám trong việc hộ đê. Ở Nam Định, có nhiều đoạn đê ngăn nước mặn còn mang lên là đê Hồng Đức, cũng như ở Thanh Hoá, nhiều sông đào, được gọi là sông nhà Lê. Để bảo đảm sản xuất, các vua Lê đã cho thi hành chính sách ngụ binh ư nông, cho quân đội thay phiên về làm ruộng, theo tinh thần tĩnh vi nông, động vi binh. Luật pháp nghiêm cấm việc giết trâu, bò sống để bảo vệ sức kéo. Khi huy động công việc lao dịch, các quan sở tại phải tránh thời vụ, để không làm kinh động sức dân.
     Quan điểm trọng nông là một chính sách truyền thống của các vương triều phong kiến Việt Nam. Nó cũng xuất phát từ nguyên lý trọng bản, ức mạt của Nho giáo. Vì vậy, thời Lê sơ, quan điểm trọng nông bắt đầu đi kèm với quan điểm ức thương.
3.2.  Thủ công nghiệp
      Nhà nước Lê sơ một mặt dung dưỡng nền sản xuất thủ công nghiệp trong các làng xã, mặt khác đẩy manh hoạt động của các quan xưởng thuộc thủ công nghiệp Nhà nước. Ở nông thôn, đã xuất hiện nhiều làng chuyên nghề như Bát Tràng (gốm sứ), Huê Cầu (nhuộm thâm). Ớ kinh thành Thăng Long, Dư địa chí  ghi lại một số phường chuyên nghề nổi tiếng như Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, Yên Thái làm giấy, Nghi Tàm và Thuỵ Chương dệt vải lụa, Hà Tân nung vôi, Hàng Đào nhuộm điều, Tả Nhất làm quạt, Đường Nhân bán áo diệp y.
      Các quan xưởng hay Cục bách tác là những xưởng thủ công do Nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành sản xuất, phục vụ cho nhu cầu của quan liêu, quân sĩ và dân chúng như các xưởng đúc tiền, chế tạo vũ khí, đóng thuyền, sản xuất các đồ dùng nghi lễ, phẩm phục.
    Trong các quan xưởng, Nhà nước áp dụng chính sách công tượng. Các thợ khéo bị trưng lập theo nghĩa vụ lao dịch, được phiên chế thành đội ngũ như binh lính, phải cưỡng bức lao động dưới sự đôn đốc của các giám đương và chủ ty. Đó là một nền sản xuất bao cấp, không tiếp cận với thị trường trao đổi buôn bán.
3.3. Thương nghiệp
     Hoạt động thương nghiệp chủ yếu ở thời Lê sơ là nền buôn bán nhỏ thông qua mạng lưới chợ ở nông thôn và thành thị. Nhà Lê đã ban hành lệ lập chợ, khẳng định “trong dân gian hễ có dân là có chợ, để lưu thông hàng hoá”, quy định nguyên tắc họp chợ luân phiên. Ở Thăng Long - Đông Kinh, các thương nhân từ các nơi về, đua nhau mở hàng quán phố xá buôn bán. Lúc đầu, chính quyền địa phương định đuổi họ về nguyên quán, sau theo đề nghị của Quách Đình Bảo đã đồng ý cho họ ở lại sinh nhai, để cho hàng hóa lưu thông và nhà nước cũng có được khoản thu từ thuế (1481).
    Thời Lê sơ, Nhà nước bỏ lệ tiêu tiền giấy của nhà Hồ, cho lưu thông tiền đồng. Lê Lợi nói :Tiền là huyết mạch của dân, không thể không có”. Nhà nước quy định 1 quan là 10 tiền, 1 tiền là 60 đồng, tức 1 quan bằng 600 đồng.
    Riêng việc buôn bán với nước ngoài, Nhà nước đã kiểm soát nghiêm ngặt các cng khẩu, như Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), cấm dân chúng tự tiện buôn bán trao đổi hàng hóa với các tàu buôn ngoại quốc, thi hành chính sách bế quan toả cảng.
3.4.  Kết cấu  xã hội
    Xã hội Đại Việt thời Lê sơ là một xã hội tương đối ổn định và phát triển, đồng thời là một xã hội mang tính đẳng cấp đã chín muồi. Có hai đẳng cấp chính: quan liêu và thứ dân (chia thành 4 tầng lớp: sĩ, nông, công, thương). Thời Lê sơ các quan hệ giai cấp (địa chủ phong kiến và nông dân) đã đan chen vào các quan hệ đẳng cấp.
    Quan liêu là đẳng cấp cầm quyền, cai trị, đồng thời cũng được coi là tầng lớp ưu tú của xã hội, yêu nuôi và giáo hóa dân chúng. Đội ngũ quan chức thời Lê sơ là những tri thức Nho sĩ được tuyển lựa kỹ lưỡng (chủ yếu qua khoa cử), được rèn luyện và kiểm soát chặt chẽ. Đó cũng là đẳng cấp có nhiều đặc quyền, ưu đãi trong các tiêu chuẩn sinh hoạt, được ban cấp đất ở, ruộng lộc điền, lương bổng.
  Đầu thời Lê sơ, các công thần chủ yếu là quan võ sau dần dần chuyển sang các quan văn. Với việc mở rộng khoa cử, các Nho sĩ trí thức bình dân đã có điều kiện tham gia chính quyền, tạo nên sự bình đẳng tiến thân, thoáng rộng hơn so với thời Lý - Trần. Tuy nhiên, quan lại lúc này cũng bị kiểm soát ràng buộc nghiêm ngặt bởi các lễ thức, quy phạm Nho giáo, do vậy, đã mang nhiều tính chuyên chế và quan liêu hơn.
 Đẳng cấp thứ dân là giai tầng xã hội b cai trị, bao gồm 4 tầng lớp chính: sĩ, nông, công, thương. Nho sĩ thời Lê sơ là cầu nối giữa bình dân và quan liêu. Nông dân là tầng lớp xã hội đông đảo nhất, đã phân hóa thành nhiều bộ phận: địa chủ bình dân, nông dân tự canh, tá điền. Một số cường hào có thể đã xuất hiện trong làng xã. Địa chủ bình dân cùng với địa chủ quan liêu đã hợp thành giai cấp phong kiến. Thợ thủ công gồm một số công tượng và chủ yếu là thợ thủ công trong làng xã. Do quan điểm “trọng nông, ức thương, thương nhân là tầng lớp xã hội bị coi rẻ hơn cả, bị gán cho những tính cách phi nghĩa”.
     4. Tình hình tư tưởng văn hóa 
    Nhìn chung, thời Lê sơ, văn hóa Đại Việt đã chuyển sang sự ưu thắng của văn hóa Đông Á, Nho học - Nho giáo. Đây là thời kỳ diễn ra một sự phân dòng văn hóa. Dòng văn hóa dân gian làng xã không được nhà nước khuyến khích, đã tách khỏi dòng văn hóa cung đình. Sự phân dòng văn hóa này đã phản ánh sự phân tầng đẳng cấp ngoài xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, các yếu tố văn hóa khác biệt nhau vẫn cùng tồn tại, chung sống hòa bình, như giữa Nho và Phật, Đạo, giữa văn hóa chính thống và văn hóa dân gian.
     4.1. Tôn giáo, tư  tưởng
     Các nhà vua thời Lê sơ đã từ bỏ chính sách khoan dung Tam giáo đồng nguyên của nhà nước thời Lý- Trần để chuyển sang một chính sách văn hóa đơn nguyên quan phương, độc tôn Nho giáo và Nho học. Ở đây, Tống Nho đã được đề cao như một hệ tư tưưởng chính thống nhà nước, làm bệ đỡ tư tưởng cho chế độ quân chủ quan liêu. Khẩu hiệu Sùng Nho trọng Đạo là việc hàng đầu(Bia Văn Miếu - 1442) đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Văn Miếu - Quốc Tử Giám được mở rộng, giáo dục khoa cử Nho học được kiện toàn. Lê Thánh Tông còn cho ban bố trong nhân dân 24 điều giáo huấn để củng cố những nguyên tắc cơ bản về đạo đức và lễ giáo Nho giáo.
   Nho giáo thời Lê sơ cũng dần dần chuyển hóa. Thời kỳ đầu, khái niệm nhân đã được nhấn mạnh. Nguyễn Trãi nói: Người làm vua phải để lòng nơi nhân nghĩa, coi nhân nghĩa là chỗ đứng của mình. Giai đoạn sau, trọng tâm của Nho giáo là được chuyển qua khái niệm lễ, mang tính giáo điều bảo thủ. Lê Thánh Tông nhấn mạnh: Người khác cầm thú là vì có Lễ để làm khuôn phép giữ gìn.
    Đề cao Nho giáo, các vua Lê sơ đã hạn chế, kiểm soát những tôn giáo phi chính thống như Phật và Đạo. Lê Thái Tổ quy định sư tăng phải trên 50 tuổi, phải qua kỳ thi khảo hạnh, nếu trượt phải hoàn tục. Triều đình Lê sơ đã cấm quý tộc quan lại xây chùa mới, hạn chế việc đi lại của sư ­tăng, đạo sĩ (Điều 301 Luật Hồng Đức), cấm quan liêu trong triều kết giao với tăng, đạo. Trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Lê Thánh Tông đã phê phán giới thiền tăng.
Nói những thiên đường cùng địa ngụ
Pháp sao chẳng độ được mình ta? 
     Không được Nhà nước khuyến khích nhưng Phật, Đạo thời Lê sơ vẫn tồn tại trong xã hội, được mọi giới thừa nhận nhất là quần chúng nhân dân. Lê Sát cho xây chùa Thanh Đàm, Chiêu Độ rộng 90 gian. Chùa Báo Thiên ở kinh thành vẫn được mở rộng, rước tượng Phật từ chùa Pháp Vân về để cầu đảo Nho sĩ Lương Thế Vinh đã soạn sách Phật (Thiền môn khoa giáo), soạn bia chùa Diên Hựu. Bản thân nhà vua sùng Nho Lê Thánh Tông vẫn đi thăm viếng nhiều chùa chiền, cho dựng lầu Vọng Tiên và thừa nhận: Giáo lý Phật Lão hết thảy đều mê đời lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không kể xiết mà lòng người vẫn rất ham rất tin. Đạo của Thánh hiền [Nho giáo]... đều thiên dụng trong cuộc sống thường ngày, mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng Phật, Lão. Các đền thờ thần linh, các danh nhân lịch sử văn hóa và các hội lễ vẫn được xây dựng, tổ chức ở khắp nơi. Chính sách độc tôn Nho họccủa nhà nước Lê sơ, trên thực tế, đã không được thi hành một cách có hiệu quả.
 4.2.  Giáo dục, khoa cử
  Giáo dục, khoa cử thời Lê sơ phát triển, trước hết do đường lối sùng Nho, của các nhà vua thời kỳ này, đồng thời cũng là để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng về đào tạo nhân tài, quan liêu cho chế độ. Lê Thái Tông khẳng định: Muốn có được nhân tài, trước hết phải chọn lựa kẻ sĩ, mà kén chọn kẻ sĩ, phải lấy thi cử làm đầu....
   Các vua thời Lê sơ đều đã cho sửa sang tu bổ Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Đợt trùng tu mở rộng lớn nhất là vào năm 1483, đời Lê Thánh Tông. Nhà vua đã cho dựng ở Văn Miếu các công trình Đại Thành môn, nhà Giải vũ Đông Tây, điện Canh Phục, kho Tế khí, nhà bia Tiến sĩ (năm 1484, cho dựng 10 bia, kể từ khoa 1442). Đối với Quốc Tử Giám, cho dựng nhà Minh Luân, giảng đường Đông Tây, kho Bí thư, nhà nghỉ cho giám sinh. Về tổ chức, Nhà nước đặt các chức Tế tửu và Tư nghiệp Quốc Tử Giám (như Tế tửu Lý Tử Tấn và Tư nghiệp Ngô Sĩ Liên). Hệ thống giảng dạy có giáo thụ, trực giảng, trợ giáo và bác sĩ.
  Quốc Tử Giám đời Lê sơ đã mở rộng đối tượng tuyển sinh và học tập, nhiều con em học giỏi xuất thân từ các gia đình bình dân cũng được tham gia học tập. Ở các địa phương, hệ thống trường học có đến cấp phủ huyện, các lớp học có đến cấp xã.
  Khoa cử cũng rất phát triển dưới thời Lê sơ. Ngay từ năm 1426, khi cuộc kháng chiến chưa thành công, Lê Lợi đã cho tổ chức khoa thi ở trạm Bồ Đề, bên kia sông Hồng. Sau khi lên ngôi, ông cũng đã cho tổ chức các kỳ thi Minh kinh và Hoành từ. Năm 1438, định phép thi hương ở các đạo. Năm 1442, tổ chức thi Hội, lấy 33 tiến sĩ (trong đó 3 người đỗ đầu là Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc). Ngô Sĩ Liên cũng đỗ khoa này. Đến thời Lê Thánh Tông, khoa cử đạt tới đỉnh cao. Trong 39 năm, đã tổ chức 12 khoa thi Hội lấy 501 tiến sĩ (toàn thời Lê sơ, có 29 khoa thi quốc gia, lấy 988 tiến sĩ).
  Thời Lê sơ, quy chế thi cử cũng được kiện toàn. Có 2 cấp thi: thi địa phương (thi Hương) và thi quốc gia (thi Hội, thi Đình).  Nhà nước Lê sơ đã thi hành chính sách trọng sĩ, trong các lễ xướng danh, ban mũ áo, thiết yến tiệc, vinh quy. Mọi tiến sĩ đều được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu.
  Nền giáo dục, khoa cử thời Lê sơ mang tính thế tục, phổ cập và bình đẳng, nó đã trí thức hóa tầng lớp quan liêu. Phan Huy Chú nhận xét: Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau càng không thể theo kịp.
  4.3. Văn học và sử học
  Có 2 khuynh hướng văn thơ nổi trội dưới thời Lê sơ : văn thơ yêu nước dân tộc và văn thơ cung đình.
  Để phục vụ cho việc xây dựng chế độ phong kiến nhà nước quan liêu và thể hiện tinh thần dân tộc, sánh ngang Nam - Bắc, các tác phẩm lịch sử, địa lý thời Lê sơ khá phong phú. Đó là các tác phẩm Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, bộ điển chế đồ sộ Thiên Nam dư hạ tập 100 quyển (đã thất truyền, chỉ còn lại 4- 5 quyển).
  Đặc biệt, bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư của các sử thần nhà Lê (Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh), phát triển từ bộ sử gốc Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu trước đó, là một tác phẩm quý giá. Ở đây, lần đầu tiên, Ngô Sĩ Liên đã đưa truyền thuyết Hùng Vương - An Dương Vương vào chính sử dân tộc.
  Về địa lý, đáng kể là cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi và tập bản đồ hành chính quốc gia soạn dưới thời Lê Thánh Tông, th­ường gọi là Hồng Đức bản đồ vẽ chi tiết 13 thừa tuyên và các phủ huyện. Các tác phẩm địa lý này cũng đã được bổ sung ở những thời kỳ sau.
 4.4.  Nghệ thuật 
 Nhìn chung, khuynh hướng cung đình, quan phương trong nghệ thuật thời Lê sơ đã thắng thế, do ảnh hưởng của văn hóa Đông Á Nho giáo, mang tính giáo điều, công thức. Nhà nước đã chấp nhận nhã nhạc như thứ nhạc chính thống được diễn tấu trong cung đình. Hình tượng con rồng thời Lê trong điêu khắc cũng dữ tợn, oai nghiêm hơn, không thanh thoát như hình tượng con rồng giun uốn lượn thời Lý- Trần.
  Thời kỳ này, văn hóa dân gian bị hạ thấp, thậm chí bị miệt thị. Năm 1448, điệu múa dân gian liên (rí ren) bị coi là dâm tục, nhảm nhí và bị cấm.
4.5. Về kiến trúc, điêu khắc:
 Hoàng thành Thăng Long được tu sửa, mở rộng vào cuối thế kỷ XV đầu XVI, với nhiều cung điện nguy nga. Điện Kính Thiên ở trung tâm Hoàng thành đã được xây dựng (ngày nay chỉ còn lại đôi lan can rồng đá). Ở quê hương Lê Lợi, Lam Kinh cũng đã được xây dựng quy mô đồ sộ với hệ thống lăng mộ và tấm bia Vĩnh Lăng nổi tiếng.
4.6. Về khoa học kỹ thuật:
Phan Phu Tiên có cuốn Bản thảo thực vật toản yếu, Lương Thế Vinh soạn Đại thành toán pháp; Vũ Hữu soạn Lập thành toán pháp, tính toán rất chính xác trong việc thiết kế xây dựng, tu sửa hai cửa Hoàng thành Thăng Long : Đại Hưng (Cửa Nam) và Đông Hoa (Cửa Đông).
5. Nhận định
   Giống như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, nhà Hậu Lê lên cầm quyền ở Việt Nam nhờ công đánh đuổi người phương Bắc để giành lại nước. Nhưng khác với thế hệ trước, nhờ có cơ sở vững chắc 470 năm liên tục (938-1407) do các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - - Trần trước đó tạo dựng nên thành quả đánh ngoại xâm của nhà Hậu Lê được giữ gìn trong thời gian dài. Nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê tồn tại được 360 năm (1428-1788).
Các vua đầu thời Lê như Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông đều là những vị vua giỏi, đặc biệt là Thánh Tông, đã đưa Việt Nam tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Chẳng những có thành tựu về chính trị, kinh tế mà cả giáo dục và nhất là quân sự khiến nước Đại Việt được mở mang tới phía bắc Nam Trung Bộ. Cũng chính cuộc tấn công của vua Lê Thánh Tông đánh dấu bước khởi đầu cho sự diệt vong của nước Chiêm Thành mà các chúa Nguyễn sau này hoàn thành. Dù trong cung đình nhà Lê luôn có biến, nhiều việc khuynh loát, tranh quyền xảy ra nhưng chính sách đối nội, đối ngoại không thay đổi, đời sống nhân dân được đảm bảo nên nước Đại Việt vẫn phát triển vững mạnh. Ngay thời Nhân Tông, dù vua còn nhỏ và Nguyễn Thái hậu chấp chính nhưng vẫn không gây xáo trộn xã hội, nhân dân không bị điêu đứng như thời Uy Mục, Tương Dực sau này.
Dù sao, nhà Lê sơ cũng có công rất lớn đối với dân tộc và là một triều đại có thể nói là được lòng dân nhất trong số các triều đại phong kiến Việt Nam.
III.  Tổng kết
Chế độ phong kiến hình thành từ những thế kỷ trước, muộn nhất là vào thời nhà Lý, chế độ phong kiến Đại Việt- thuộc loại hình phong kiến nhà nước quan liêu đã được xác lập vững chắc vào thế kỷ XV, dưới triều Lê sơ.
    Thời Lý, Trần trên danh nghĩa, Nhà nước Đại Việt đã chấp nhận một mô hình phong kiến thời Đường- Tống, và ở một mức độ hạn chế, hệ tư tưởng phong kiến Khổng giáo. Tuy nhiên, ngay cả ở mặt thiết chế hệ tư tưởng này, ảnh hưởng Phật giáo vẫn còn rất đậm, các yếu tố phong kiến còn khá mờ nhạt. Mặt khác, thực thể kinh tế - xã hội còn mang nhiều yếu tố cổ tuyền trước phong kiến. Nhà nước chưa nắm chắc một cách trực tiếp người nông dân tự canh, tầng lớp địa chủ phong kiến tư hữu chưa phát triển, sự phân hóa đẳng cấp trong xã hội và nhất là trong làng xã chưa thực sự gay gắt. Một xã hội phong kiến đích thực chưa tồn tại, hoặc nói khác đi, chế độ phong kiến nhà nước quan liêu Đại Việt còn ở giai đoạn tiền mô hình, duy trì một khoảng cách khá lớn giữa danh và thực.
    Triều Lê sơ thành lập, có thể được coi như một bước ngoặt lịch sử, trong những điều kiện thuận lợi cho những yếu tố phong kiến phát triển. Thiết chế - ý thức hệ phong kiến mà nhà Minh áp đặt trong hai thập kỷ thuộc Minh đã để lại những hệ quả sâu sắc. Các nhà vua thời Lê sơ do tinh thần tự hào dân tộc, quan điểm vô tốn Hoa Hạ, “sánh ngang Nam - Bắc cũng đã tự nguyện chấp nhận một mô hình phong kiến Nho giáo Đông Á, như một bệ đỡ tư tưởng cho thiết chế quân chủ tập quyền. Ở đây, một nhà nước chuyên chế toàn năng, can thiệp vào mọi mặt đời sống xã hội, đã được xác lập. Đẳng cấp quan liêu được tuyển lựa qua khoa cử, đã trở thành lực lượng thống trị, ngày càng xa cách khối quần chúng bình dân làng xã. Trên danh nghĩa, Nho giáo được coi như một hệ tư tưởng phong kiến chính thống độc tôn. Thiết chế - hệ tư tưởng phong kiến đến giai đoạn này, đã được hoàn chỉnh.
  Những chuyển biến về kinh tế - xã hội thời Lê sơ cũng ngày càng ngả sang màu sắc phong kiến. Những quan hệ sản xuất phong kiến trong kinh tế nông nghiệp được thể hiện ở hai mặt. Người nông dân tự canh trong làng xã ngày càng bị lệ thuộc và ràng buộc vào một Nhà nước phong kiến thu tô, qua phép quân điền, những nghĩa vụ tô thuế, lao dịch và binh dịch, làng xã ngày càng bị phong kiến hoá. Mặt khác, do sự phát triển của yếu tố tư ­ hữu ruộng đất và tầng lớp địa chủ bình dân, quan hệ sản xuất phong kiến địa chủ - tá điền dần dần phổ biến trong xã hội. Sự phân hóa đẳng cấp trở nên sâu sắc, trên quy mô xã hội ở tầng vĩ mô, cũng như trong quy mô làng xã ở tầng vi mô.
  Nói tóm lại, thời Lê sơ, cả ở mặt mô hình thiết chế, hệ tư tưởng lẫn mặt thực thể kinh tế - xã hội, những yếu tố phong kiến đã chiếm ưu thế. Chế độ phong kiến nhà nước quan liêu Đại Việt đã được xác lập vững chắc, khoảng cách giữa danh và thực (giữa mô hình và thực thể) ở mức độ nhỏ nhất. Thế kỷ XV được coi là một thế kỷ cổ điển của chế độ phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình chế độ phong kiến nhà nước quan liêu, có nhiều điểm khác biệt nếu đối sánh với một chế độ phong kiến lãnh chúa ở Tây âu trung đại, hay với chế độ phong kiến võ sĩ hoặc chế độ phong kiến tăng lữ ở một số nước khác. 
 Tuy nhiên, trong thực tế, xã hội Đại Việt thời Lê sơ vẫn không phải và chưa bao giờ hoàn toàn là một xã hội phong kiến Đông Á Nho giáo thuần nhất. Nó là một sự hỗn dung, lai ghép mang tính đối trọng giữa một mô hình ngoại nhập và một mô hình thực thể bản địa. Triều Lê sơ, vì thế, đã có một vị thế quan trọng và được đánh giá cao trong lịch sử dân tộc, quan sự nghiệp giữ nước và dựng nước. 
 Về mặt tiến trình xã hội, so với thời Lý - Trần, sự xác lập chế độ phong kiến nhà nước quan liêu thời Lê sơ là một buớc tiến. Tuy nhiên, ở một số mặt nào đó, nhất là về quan hệ xã hội và cân bằng văn hóa, nó đồng thời cũng bị chững lại, thậm chí có chỗ thụt lùi. Trong thế kỷ XV, những mâu thuẫn xã hội chứa chất, nhưng trong điều kiện một thể chế Nhà nước mạnh và ổn định, nên vẫn ở dạng tiềm năng. Những mâu thuẫn đó sẽ bộc phát nhanh chóng trong 3 thập kỷ đầu thế kỷ XVI, dẫn triều Lê sơ đến chỗ sụp đổ.